Khi nào phụ nữ nên tầm soát ung thư cổ tử cung

NDO -

NDĐT – Theo Ghi nhận ung thư 2018, Việt Nam có khoảng gần 4.200 ca mắc mới và có hơn 2.400 ca tử vong vì căn bệnh ung thư cổ tử cung. Phần lớn người bệnh đến khám và điều trị khi bệnh đã ở giai đoạn muộn.

Khi nào phụ nữ nên tầm soát ung thư cổ tử cung

Ung thư cổ tử cung là một trong những bệnh phổ biến nhất ở phụ nữ đặc biệt trong độ tuổi 30 trở lên. Đây là loại bệnh mà tế bào ung thư thường xuất phát từ vùng chuyển tiếp nơi tiếp nối tế bào biểu mô vẩy và tế bào biểu mô trụ của cổ tử cung.

Ngày 11-2 vừa qua, Khoa Hồi sức cấp cứu, Bệnh viện K đã tiếp nhận trường hợp nữ bệnh nhân Quốc tịch Nam Phi, bà Demirel S.(54 tuổi) đã được chẩn đoán ung thư cổ tử cung cuối tháng 11-2018 nhưng không điều trị.

TS, BS Nguyễn Tiến Đức, Trưởng khoa Hồi sức cấp cứu cho biết bệnh nhân S nhập viện trong tình trạng ra máu âm đạo, chóng mặt, buồn nôn, da xanh niêm mạc nhợt, vô niệu.

Xét nghiệm cho thấy bệnh nhân bị suy thận cấp do khối ung thư cổ tử cung xâm lấn lan rộng làm giãn niệu quản 2 bên, Ure huyết tăng cao lên tới 44 (chỉ số bình thường từ 2.5 – 7.5); Creatinin 1216 (chỉ số giới hạn thường 44-106) và hội chứng thiếu máu nặng. Ngay lập tức các bác sĩ Khoa Hồi sức cấp cứu đã tiến hành truyền máu, lọc máu, cấp cứu tích cực giúp tình hình bệnh nhân cải thiện. Chỉ số hồng cầu, huyết sắc tố tăng, sau hai lần lọc máu chỉ số Ure giảm còn 9.8 và Creatinin giảm xuống hơn 300.

Bệnh nhân đã được chỉ định thực hiện các xét nghiệm siêu âm, chụp cộng hưởng từ cho thấy khối u cổ tử cung khích thước 9,5x8,7x9,6cm, nhiều hạch chậu và hạch chủ bụng, khối tuyến thượng thận hai bên. Bác sĩ chẩn đoán bệnh nhân bị suy thận cấp và mắc ung thư cổ tử cung giai đoạn IV, sẽ tiếp tục được theo dõi và điều trị theo phác đồ.

TS, BS Nguyễn Tiến Đức khuyến cáo, sàng lọc, phát hiện sớm ung thư là phương pháp tốt nhất giúp phát hiện những bất thường, dấu hiệu tiền ung thư, hoặc ung thư giai đoạn sớm, trước khi bệnh gây ra các triệu chứng và cơ hội điều trị thành công cao.

Dấu hiệu cảnh báo ung thư cổ tử cung gồm: ra khí hư âm đạo màu vàng, có mùi khó chịu hoặc khí hư có nhầy máu; ra máu âm đạo bất thường; ra máu âm đạo sau quan hệ tình dục; đau tức vùng bụng dưới; đi tiểu, đi ngoài ra máu khi ung thư xâm lấn bàng quang, trực tràng.

Ung thư cổ tử cung là bệnh có thể chữa khỏi nếu được phát hiện sớm và điều trị ở giai đoạn đầu. Việc phát hiện sớm ung thư cổ tử cung là rất cần thiết cho điều trị căn bệnh này, đem lại hiệu quả điều trị và chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân.

Tùy vào giai đoạn của bệnh mà các bác sĩ sẽ đưa ra phác đồ điều trị phù hợp. Hiện nay tại Việt Nam bệnh ung thư cổ tử cung đang được điều trị theo các phương pháp hiện đại và hiệu quả như phương pháp phẫu triệt căn, hóa xạ trị triệt căn, hóa xạ trị kết hợp phẫu thuật. Phẫu thuật là phương pháp phổ biến đối với ung thư cổ tử cung giai đoạn sớm. Phạm vi phẫu thuật ung thư cổ tử cung có thể là phẫu thuật khoét chóp cổ tử cung. Cắt tử cung toàn bộ, cắt tử cung triệt căn, vét hạch bằng mổ nội soi hoặc mổ mở.

Phát hiện sớm ung thư cổ tử cung sẽ giúp cho quá trình điều trị đạt hiệu quả tối đa. Vì vậy việc phòng và phát hiện sớm bệnh ung thư cổ tử cung phải luôn được đặt lên hàng đầu. Chị em nên quan tâm đển những biểu hiện bất thường, theo dõi chặt chẽ sức khỏe của mình, nên đi khám phụ khoa định kỳ và làm xét nghiệm sàng lọc ung thư cổ tử cung theo chỉ định của bác sĩ, cùng với tiêm phòng vaccin. Đây là cách phòng tránh và phát hiện sớm nhất bệnh ung thư cổ tử cung.

Một số yếu tố nguy cơ gây ung thư cổ tử cung

- Virus HPV: là thủ phạm chính gây ung thư cổ tử cung (99,7%), lây truyền qua đường tình dục. Bình thường, HPV có hơn 100 type nhưng 14 type có nguy cơ cao gây ra loại ung thư này. Trong đó, có hai type nguy cơ cao nhất là type 16 và type 18.

- Ức chế miễn dịch: thuốc hay các bệnh ảnh hưởng đến hệ thống miễn dịch như virus gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV), có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng HPV và dẫn đến ung thư cổ tử cung.

- Tuổi càng cao thì nguy cơ mắc bệnh càng tăng, đặc biệt là trên 35 tuổi.

- Sinh con quá sớm (dưới 17 tuổi) khi cơ quan sinh sản chưa phát triển hết sẽ làm tăng nguy cơ ung thư cổ tử cung.

- Phụ nữ sinh đẻ nhiều lần (từ ba lần trở lên) thì tỷ lệ mắc bệnh cao gấp hai lần so với những phụ nữ sinh 1 – 2 con.

- Một số nguyên nhân khác: béo phì, thuốc lá, quan hệ tình dục bừa bãi, sử dụng thuốc tránh thai trong thời gian dài ….