ND - Ði trên con đường đất đỏ thẫm vào chiến khu Ð, nhìn những cánh rừng xanh ngút ngàn, lòng chợt ngân câu hát: "Ai đã qua rừng miền Ðông đất đỏ, nghe máu đổ nhuộm hồng đã bao lần...".
Và khi thăm khu Di tích lịch sử quốc gia tại huyện Vĩnh Cửu, thắp nén hương thơm tưởng nhớ các liệt sĩ đã hy sinh trong chiến khu Ð, nghe những câu chuyện cảm động, tôi càng hiểu thêm vì sao lòng người miền nam luôn luôn hướng về đất bắc, chiến đấu với khát vọng cháy bỏng: đất nước được hòa bình, thống nhất, nam - bắc sum họp một nhà, để đồng bào miền nam được gặp Bác Hồ. Trong những câu chuyện đó, hình ảnh Huỳnh tướng quân ở chiến khu Ð đẹp như huyền thoại.
Thế hệ chúng tôi sinh ra và lớn lên nơi phố phường Hà Nội, biết đến Huỳnh Văn Nghệ qua bài thơ nổi tiếng Nhớ Bắc, mãi sau ngày giải phóng mới biết ông là vị chỉ huy cầm quân đánh đâu thắng đó. Văn võ toàn tài, ông được anh em yêu quý, tôn là Huỳnh tướng quân, dù cấp bậc của ông chỉ là Thượng tá. Khi Biên Hòa chìm trong đạn lửa của thực dân Pháp tái chiếm Nam Bộ, Huỳnh Văn Nghệ là Ủy viên Ủy ban kháng chiến miền Ðông. Ông đã tức tốc vượt sông Ðồng Nai về huyện Tân Uyên xây dựng lực lượng. Từ nhóm vũ trang của ông Nguyễn Văn Quỳ, ông quy tụ lại, huấn luyện và tổ chức họ trở thành đơn vị vệ quốc đoàn đầu tiên của Biên Hòa. Bà con yêu mến thường gọi anh em là "Bộ đội Tám Nghệ".
Tháng 12-1945, Nam Bộ được chia thành ba chiến khu 7, 8, 9; sau đó khu bộ Khu 7 về đóng tại xã An Lạc, huyện Tân Uyên. Cái tên chiến khu Ð bắt đầu từ tháng 2-1946, khi Xứ ủy Nam Bộ quyết định thành lập chiến khu Ð gồm địa bàn 5 xã của huyện Tân Uyên (nay thuộc tỉnh Bình Dương): Mỹ Lộc, Tân Hòa, Tân Tịch, Thường Lang, An Lạc. Ðây cũng là nơi đóng trụ sở của Tỉnh ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính, lực lượng vũ trang tỉnh Biên Hòa. Cả một vùng rộng lớn chạy suốt từ bắc Biên Hòa nối với miền Trung Tây Nguyên tạo thành căn cứ địa thông sang Liên khu V và hậu phương vững chắc. Và từ đây, ta tổ chức những trận đánh, liên tục giành thắng lợi. Cũng từ mảnh đất này, Huỳnh Văn Nghệ đã trở thành Thi tướng, vừa đánh giặc vừa làm thơ, phản ánh đời sống gian khổ và cuộc chiến đấu hào hùng của quân dân miền Ðông.
Trận đánh đầu tiên của Vệ quốc quân Biên Hòa do chính ông chỉ huy phối hợp với các lực lượng vũ trang Châu Thành - Hóc Môn - Gia Ðịnh - Bình Xuyên đêm 1-1-1946, rạng sáng ngày 2-1-1946 đánh vào thị xã Biên Hòa đã gây tiếng vang lớn, cổ vũ quân dân miền Ðông anh dũng chống thực dân Pháp. Tháng 6-1946, ông là Chi đội trưởng Chi đội 10 lực lượng vũ trang chủ lực của Biên Hòa với 1.100 chiến sĩ, hoạt động trên địa bàn rộng lớn từ Tân Uyên sang Long Thành, Châu Thành, Xuân Lộc. Từ cái nôi của quê hương Tân Tịch và đất Cuốc, với tài thao lược, đánh đâu thắng đó, ông đã góp phần quan trọng trong việc hình thành và phát triển lên căn cứ kháng chiến, bao gồm cả một vùng rừng núi của huyện Tân Uyên và Vĩnh Cửu. Từ đó, ta có điều kiện thuận lợi tổ chức những trận đánh làm cho quân giặc khiếp đảm ở Trảng Táo, Báo Chánh, Bàu Cá, Ðồng Xoài, La Ngà... Sau trận La Ngà nổi tiếng khắp nước, ông được Bác Hồ tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng nhất. Nhân dân nức lòng truyền nhau câu ca: "Khu Ð đi dễ khó về/Lính đi mất mạng, quan về mất lon". Còn bọn địch thì cay cú: "Chiến khu Ð còn, Sài Gòn mất". Lực lượng vũ trang miền Ðông đánh phá hệ thống tháp canh ven căn cứ và trên các đường giao thông huyết mạch, giữ gìn và củng cố lực lượng, phát triển chiến tranh du kích. Ðông xuân 1953-1954, phối hợp với chiến dịch Ðiện Biên Phủ, ta vừa tiến hành địch vận, vừa tiến công, bức rút đồn bót địch, vây lấn, mở rộng chiến khu Ð ra giáp sông Ðồng Nai, đường 16, lên giáp sông Bé.
Chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp, chiến khu Ð là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam mới, tự do, độc lập, với đời sống văn hóa văn nghệ tươi vui. Dù ở cương vị Khu bộ phó Khu 7, rồi Phó Bí thư Tỉnh ủy Biên Hòa (1948), Tỉnh đội trưởng tỉnh đội Thủ - Biên (1951), đối mặt với muôn vàn khó khăn, ác liệt của chiến trường, trong ông vẫn rời rợi tâm hồn của một thi nhân. Ông được làng Thơ biết đến từ những năm còn học ở Trường trung học Petrus Ký (Sài Gòn) với Bà bán cau (1935), Mộ bia (1936), Trăng lên (1937), Ðám ma nghèo (1938)... Thơ Huỳnh tướng quân được cán bộ chiến sĩ náo nức đón đọc, bởi đó chính là nỗi niềm của người chiến sĩ miền Ðông gian lao anh dũng, là khát vọng hòa bình và tấm lòng son sắt hướng về Việt Bắc, về Bác Hồ kính yêu... Hôm nay, giữa núi rừng chiến khu Ð, vẫn như vang lên những bài thơ ông làm trong những năm kháng chiến: Xuân chiến khu (1946), Ngày hội (1947), Bên bờ sông Xanh (1948), Mẹ Nam con Bắc (1953), Du kích Ðồng Nai (1954).
Ông sống mãi trong lòng dân Tân Uyên, Biên Hòa và người dân Ðất Việt. Không chỉ đường phố, trường học của tỉnh Bình Dương mang tên ông mà Hội Khoa học lịch sử Việt Nam đã tổ chức đúc tượng đồng và trân trọng làm lễ đặt tượng tại quê hương ông. Người chiến sĩ - nghệ sĩ - tướng quân Huỳnh Văn Nghệ vẫn được đồng đội cũ gọi bằng cái tên thân thiết - anh Tám Nghệ. Ông đã thanh thản ra đi vào năm 1977, như câu thơ ông viết khi đang chỉ huy đơn vị vệ quốc đoàn đánh địch năm 1946: "Gửi lại bạn mấy vần thơ trên cát/Và chiều nay tôi sang bến lên đường".
Ghi nhớ những đóng góp của ông cho kháng chiến và nền văn học đất nước, năm 1998, kỷ niệm 300 năm Biên Hòa - Ðồng Nai, Tuyển tập thơ Huỳnh Văn Nghệ đã được NXB Ðồng Nai ấn hành, giới thiệu với bạn đọc. Rằm tháng Giêng năm 2007, kỷ niệm 30 năm ngày mất của ông, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Ðồng Nai đã phối hợp với Bộ Tư lệnh Quân khu 7, Ðài truyền hình TP Hồ Chí Minh tổ chức Hội thảo về sự nghiệp và tác phẩm của Huỳnh Văn Nghệ. Năm 2008, kỷ niệm 310 năm Biên Hòa - Ðồng Nai, UBND và Sở VHTT tỉnh Ðồng Nai đã long trọng tổ chức "Ðêm tưởng niệm danh nhân Huỳnh Văn Nghệ", đầy xúc động, tự hào về người con ưu tú của quê hương... Về sự nghiệp văn chương, cùng với nhà văn Lý Văn Sâm, nhà văn Hoàng Văn Bổn của Ðồng Nai, Huỳnh Văn Nghệ đã vinh dự được nhận Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật đợt II.
Trong tiếng rừng đại ngàn thâm u, những tấm biển di tích như người lính lặng lẽ chỉ lối về những ngày nếm mật nằm gai chiến khu xưa, tôi cảm nhận đầy đủ hơn, sâu sắc hơn mạch nguồn của Bộ đội Tám Nghệ được truyền từ khí phách bất khuất của Trương Công Ðịnh, Trương Quyền lãnh đạo nghĩa quân Ðồng Nai - Nam Bộ kiên cường chống kẻ thù xâm lược "Bến nghé cửa Tiền tan bọt nước/ Ðồng Nai tranh khói nhuốm màu mây". Và đến Huỳnh Văn Nghệ, người đảng viên cộng sản, chiến sĩ, thi sĩ đã cùng đồng đội viết tiếp bản tráng ca bất tử, với nỗi nhớ da diết: "Từ độ mang gươm đi mở cõi/Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long".