Hàng năm Việt Nam cần tới 10 triệu củ khoai tây giống, nhưng hiện tại chọn giống theo lối truyền thống bằng củ bi khoai tây năng suất còn thấp, có khả năng mang mầm bệnh cao.
Trên thực tế, nhu cầu về giống khoai tây phục vụ cho sản xuất trên cả nước được đánh giá là khá lớn, nhưng khả năng cung cấp giống cho người dân vẫn còn hạn chế.
Hiện nay Ðà Lạt vẫn chiếm ưu thế về việc cung cấp khoai tây giống cho cả nước, vì có khí hậu mát mẻ, rất phù hợp cho việc nhân giống khoai tây. Nhưng trong quá trình sản xuất khoai tây giống củ bi có hai vấn đề tồn tại. Ðó là năng suất củ bi khoai tây còn thấp: từ một cây mẹ, khi đưa ra trồng chỉ đạt 2,5 củ bi. Hơn nữa, việc sản xuất khoai tây củ bi của Việt Nam chưa theo một quy trình kỹ thuật hiện đại nên giống khoai còn kém chất lượng, năng suất không cao và củ bi có khả năng mang mầm bệnh.
Trước thực trạng này, TS. Nguyễn Tiến Thịnh suy nghĩ: Tại sao không dùng bức xạ kích thích khả năng sinh trưởng của cây khoai tây. Nhưng nếu muốn chiếu xạ số lượng lớn khoai tây đủ cho nông dân Ðà Lạt trồng thì phải sử dụng một diện tích không gian rộng lớn.
Mô hình củ khoai tây bi trong ống nghiệm chỉ có mỗi ưu điểm là cất giữ được. Nếu thu hoạch xong mà gieo ngay thì nó mọc. Nhưng không phải lúc nào nông dân cũng cần gieo ngay. Muốn cất giữ thì củ khoai tây lại xảy ra hiện tượng ngủ. Thời gian ngủ của khoai tây từ bốn đến năm tháng. Sau đó khoai tây mới nảy mầm. Nếu trong thời gian khoai tây ngủ, chúng ta cần củ giống để gieo trồng thì làm cách nào? Tại sao ta không chế tạo hạt khoai tây nhân tạo?
Từ một củ giống khoai tây khỏe mạnh, TS. Thịnh cho lên mầm bằng cách thiết lập hệ thống trồng in vitro để tạo ra những cây có tính chất di truyền và sinh lý như nhau - gọi là clone (cây dòng hóa). Từ đó tạo ra một quần thể cây đồng nhất. Sau đó, sử dụng kỹ thuật tạo ra củ khoai tây siêu bi trong ống nghiệm với kích thước rất nhỏ. Sau khi có được củ khoai tây siêu bi (gọi là "hạt khoai tây"), kích thích chúng bằng phóng xạ để nghiên cứu độ nhạy cảm đối với phóng xạ của khoai tây.
Kết quả thu được là: củ siêu bi trong ống nghiệm, sau khi được chiếu xạ ở các liều lượng thấp khác nhau, không thấy ảnh hưởng gì đến khả năng sinh trưởng và phát triển của khoai tây. Sau đó, cho củ siêu bi này nảy mầm rồi đem ra ngoài vườn ươm thì thu được loại củ khoai tây giống có kích thước nhỏ như hạt đậu xanh hay bột báng để chuyển giao cho nông dân trồng thành khoai tây thương phẩm.
Hạt khoai tây nhân tạo có ưu điểm là không dễ bị tổn thương khi vận chuyển vì có một lớp da bao bọc bên ngoài. Loại hạt này luôn ở tư thế động và có thể điều khiển để ngủ hay không ngủ. TS. Thịnh tìm cách làm cho củ khoai tây bi bé lại, tương đương như hạt để dễ xử lý bằng phóng xạ. Mục đích là tạo ra một loại mẫu giống khoai tây trẻ, sạch và đặc biệt là kích thước nhỏ. Sau đó là khảo sát khả năng kích thích sinh trưởng bằng bức xạ gamma liều thấp trên loại mẫu giống mới. TS. Thịnh xây dựng quy trình sản xuất củ bi giống bằng phương pháp thủy canh, tạo ra giống cây khoai tây sạch.
"Nghiên cứu kích thích sinh trưởng khoai tây bằng kỹ thuật bức xạ hạt nhân kết hợp với công nghệ sinh học" là một trong những đề tài nghiên cứu khoa học có giá trị ứng dụng của Phòng Công nghệ sinh học, Viện Nghiên cứu hạt nhân Ðà Lạt. Ðó là một hướng đi hoàn toàn mới của Viện Nghiên cứu hạt nhân Ðà Lạt. Trong tương lai không xa, khi diện tích khoai tây tại Lâm Ðồng được mở rộng để phục vụ cho công nghệ chế biến khoai tây sấy khô, đây sẽ là một đề tài có khả năng ứng dụng vào thực tế.