Học phí: Tăng thế nào cho hợp lý?

Thứ trưởng GD-ĐT
Phạm Vũ Luận.
Thứ trưởng GD-ĐT Phạm Vũ Luận.

Thưa ông, cơ sở thực tiễn của chủ trương tăng học phí là gì? Nhiều ý kiến cho rằng chủ trương tăng học phí  của ngành giáo dục và đào tạo mang tính cảm tính do có việc tăng lương, tăng giá, chứ ngành vẫn thiếu một căn cứ và điều tra xã hội học thật sự khoa học? Mục đích của chủ trương tăng học phí  là gì?

- Bộ Giáo dục và Ðào tạo đang trình Chính phủ Ðề án điều chỉnh học phí trong các cơ sở giáo dục quốc dân. Cần phải lưu ý là điều chỉnh chứ không phải là tăng học phí.

Vì sao lại phải điều chỉnh, có mấy lý do cơ bản sau: Chế độ học phí hiện hành được thực hiện theo Quyết định 70/1998/QÐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ được áp dụng từ năm 1998, đến nay bộc lộ nhiều hạn chế.

Trước hết, mức chi phí đào tạo/học sinh, sinh viên (bao gồm cả phần ngân sách Nhà nước (NSNN) đầu tư và phần học phí do người học phải nộp) thực tế hiện nay rất thấp, không đủ bù đắp cho hoạt động bình thường của các cơ sở giáo dục.

Phải nói thêm là, NSNN đầu tư cho giáo dục và đào tạo trong những năm qua liên tục tăng đáng kể và đã thể hiện rõ sự quan tâm của Ðảng và Nhà nước đối với sự nghiệp giáo dục, thật sự coi đây là quốc sách hàng đầu. Nhưng do số lượng học sinh, sinh viên của chúng ta tăng với tốc độ cao hơn, và số lượng trường lớp được xây dựng mới cũng tăng đáng kể, nên mức thụ hưởng tính trên một học sinh, sinh viên giảm đi.

Tính cụ thể ở thời điểm tháng 4-2005, mức chi phí đào tạo cho một sinh viên đại học - cao đẳng công lập dao động trong khoảng 3,8 - 5 triệu đồng, thấp hơn mức chi được Bộ Tài chính quy định là sáu triệu đồng (tại Công văn số 562 TC/HCSN ngày 3-3-1998).

Thứ hai, mức học phí tại Quyết định 70 được quy định thống nhất cho tất cả các cơ sở giáo dục. Trong khi trên thực tế hiện nay, có nhiều cơ sở giáo dục (ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và một số địa phương khác) đạt chuẩn hóa, được hiện đại hóa với mức độ khác nhau và đã đạt cấp độ chất lượng cao hơn. Ở đó, đầu tư và chi phí cho hoạt động giáo dục lớn hơn nhiều so với các trường lớp ở vùng khó khăn chưa đạt chuẩn.

Các cơ sở giáo dục này hiện nay vẫn thu mức học phí giống như ở các chỗ đang giải quyết vấn đề kiên cố hóa, xóa trường tạm tranh tre nứa lá.

Như vậy, lý do thứ nhất, phải điều chỉnh học phí vào thời điểm này là do học phí được quy định đồng loạt hiện nay chưa bảo đảm được và chưa phản ánh đúng nguồn thu - chi của các cơ sở giáo dục và đào tạo đã được phân thành các cấp chất lượng khác nhau trong quá trình phát triển.

Lý do thứ hai, liên quan vấn đề miễn giảm học phí và thực hiện chính sách xã hội đối với người học.

Trong Quyết định 70 chưa làm rõ được cơ chế và nguồn kinh phí bảo đảm cho các đối tượng được miễn giảm học phí (con gia đình thương binh, con liệt sĩ, con nhà nghèo, các cháu học sinh là con em đồng bào dân tộc thiểu số...). Do vậy, các trường, các địa phương phải tự lo bù đắp phần học phí miễn giảm đó, và từ đó có những "sáng tạo" khác nhau trong vận dụng.

Gần đây, các trường ngoài công lập đã có nguồn kinh phí bù đắp phần học phí miễn giảm này (theo Thông tư liên Bộ Tài chính - Lao động, thương binh và Xã hội số 23 ngày 6-4-2001).

Hiện nay, các trường công lập có nhiều học sinh thuộc diện miễn giảm vẫn gặp nhiều khó khăn vì không có nguồn bù đắp. Ðiều này cần được khắc phục.

Lý do thứ ba, liên quan cơ chế sử dụng học phí hiện nay. Việc quy định "cứng" tỷ lệ phần trăm nguồn học phí thu được để tái đầu tư hoặc sử dụng cho chi thường xuyên đã không phù hợp tinh thần chỉ đạo của Chính phủ về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính và các mặt khác của cơ sở giáo dục và đào tạo theo Nghị định 10/2002//NÐ-CP và chủ trương đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục thể hiện trong Nghị quyết 05/2005/NQ-CP.

Có thể nói thêm, lý do thứ tư, liên quan việc hội nhập và mở cửa. Nếu tiếp tục quy định quá "cứng" về học phí đối với các cơ sở giáo dục của nước ta như hiện nay thì sẽ không khuyến khích việc đầu tư để nâng cao chất lượng cơ sở giáo dục, tạo ra sự bất lợi, thiếu bình đẳng trong điều kiện phát triển của các cơ sở giáo dục và đào tạo Việt Nam so với các cơ sở có yếu tố đầu tư nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam. Và điều đó gián tiếp là nguyên nhân gây nên sự tăng trưởng đột ngột của hiện tượng du học nước ngoài hiện nay.

Việc điều chỉnh học phí đương nhiên trong đó có mục đích góp phần nâng cao chất lượng đào tạo. Thế nhưng trong thực tiễn trước đây, có nhiều ý kiến cho rằng chất lượng giáo dục phổ thông thấp do đời sống giáo viên quá khó khăn. Vì thế nhiều năm nay, Nhà nước có nhiều chính sách, chế độ cải thiện thu nhập của nhà giáo. Nhưng chưa bao giờ dư luận xã hội đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông yếu kém như hiện nay. Thứ trưởng có bình luận gì?

- Nhà báo có đồng ý với nhận định "chưa bao giờ chất lượng giáo dục phổ thông yếu kém như hiện nay" không? Còn tôi, với sự hiểu biết và thông tin hiện có của mình, tôi không đồng tình với nhận định đó.

Như chúng ta đã biết, trong Báo cáo về tình hình giáo dục được Chính phủ trình bày trước Quốc hội, và trong Nghị quyết số 37/2004/QH11 của Quốc hội khóa XI được thông qua tại kỳ họp thứ 6 ngày 3-12-2004, phần nói về ưu, khuyết điểm của giáo dục liên quan vấn đề chất lượng đều thống nhất nhận định: Chất lượng giáo dục có chuyển biến tích cực, lực lượng lao động được đào tạo đã và đang góp phần có hiệu quả vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội... Nhưng chất lượng giáo dục còn nhiều yếu kém, bất cập, hiệu quả giáo dục còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước...

Theo Thứ trưởng điều chỉnh học phí cần như thế nào để tạo sự chuyển biến từ lượng thành chất?

- Vấn đề học phí sẽ được giải quyết theo một lộ trình được tính toán kỹ, phù hợp tình hình phát triển kinh tế-xã hội; quốc phòng-an ninh của đất nước và sự phát triển của ngành giáo dục và đào tạo cũng như thành tựu của sự nghiệp CNH, HÐH đất nước.

Nói cụ thể hơn, học phí sẽ được xây dựng, thẩm định và ban hành bởi cấp có thẩm quyền, dựa trên một số tiêu chí, một số chuẩn chất lượng của từng loại cơ sở giáo dục và đào tạo.

Thí dụ như mức trang bị cơ sở vật chất, thiết bị, phòng thí nghiệm, thư viện, máy vi tính, diện tích phòng học, số học sinh, trình độ đội ngũ giáo viên, sự thừa nhận của xã hội đối với chất lượng và uy tín của cơ sở giáo dục.

Nhiều ý kiến băn khoăn rằng, về mặt bản chất, trừ một số trường đại học kỹ thuật, công nghệ..., phổ biến đại học ở nước ta vẫn là "phổ thông cấp 4", tức là thầy đọc - trò chép, thiếu thực hành, thực nghiệm. Việc điều chỉnh học phí nếu thiếu đồng bộ một loạt giải pháp rất có thể tiền "càng nhiều, càng ít", mà chất lượng đào tạo đại học vẫn không nâng cao hơn. Ý kiến của đồng chí như thế nào?

- Giải quyết nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo đòi hỏi phải triển khai đồng bộ nhiều giải pháp liên quan các vấn đề đội ngũ giáo viên, chương trình - giáo trình, cơ sở vật chất kỹ thuật và trang thiết bị giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học cũng như các vấn đề liên quan tổ chức quản lý giáo dục...

Ðể có nguồn lực tài chính giải quyết các vấn đề nêu trên, Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư cho giáo dục, trước hết là giáo dục ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng chính sách xã hội.

Học phí là một nguồn lực quan trọng, nhưng không phải là giải pháp duy nhất để giải quyết vấn đề trên.

Quan điểm của chúng tôi: học phí vừa là một điều kiện để nâng cao, vừa là một dấu hiệu của chất lượng của cơ sở giáo dục và đào tạo.

Với chủ trương điều chỉnh học phí, một tỷ lệ không nhỏ sinh viên là con em nông dân, sinh viên nghèo sẽ gặp khó khăn. Với đối tượng này, ngành giáo dục và đào tạo chủ trương ra sao? Và lộ trình của việc điều chỉnh học phí này như thế nào, thưa Thứ trưởng?

- Như đã đề cập ở phần trên, Ðề án được trình lần này đề xuất một cơ chế mới để thực hiện việc miễn giảm học phí cho người học thuộc các đối tượng chính sách xã hội một cách đầy đủ, kịp thời, chính xác và hiệu quả, đồng thời bảo đảm cho các cơ sở giáo dục và đào tạo có học sinh, sinh viên thuộc diện đối tượng chính sách vẫn hoạt động bình thường như các cơ sở giáo dục và đào tạo khác.

Trong Ðề án, Bộ Giáo dục và Ðào tạo đã đề xuất một lộ trình triển khai thực hiện, nhưng vẫn phải chờ sự quyết định của Chính phủ.

Xin cảm ơn Thứ trưởng.

* Tin tăng học phí đại học (HPÐH) làm tôi vừa mừng vừa lo. Mừng vì tôi biết mức thu HPÐH hiện nay chỉ đáp ứng một phần ít ỏi cho việc đào tạo cử nhân trong nước, chưa nói gì đến hội nhập quốc tế. Vì vậy, tăng HPÐH cũng có nghĩa là tăng phương tiện bảo đảm chất lượng đào tạo đại học. Nhưng cũng lo. Lo vì không biết việc tăng ấy có thật sự mang lại hiệu quả không, bởi việc quản lý và sử dụng kinh phí của ta cũng còn lắm vấn đề. Vả lại, với mức thu nhập của công chức ở thành phố lớn, việc lo cho hai con học đại học đã rất vất vả rồi, nói chi đến các gia đình ở nông thôn, miền núi còn nhiều khó khăn, hay thậm chí ở đô thị nhưng các cháu đi học xa cũng tốn kém hơn rất nhiều.

Tuy nhiên, tăng HPÐH là việc tất yếu cần làm, thậm chí cần làm ngay. Vấn đề là tăng như thế nào cho hợp lý.

Theo tôi, bên cạnh việc tính đúng, tính đủ, cần phải tính thêm đến các đối tượng hưởng chính sách miễn giảm HPÐH. Bên cạnh đó, việc phân bổ chỉ tiêu cũng cần phải tính toán lại để các trường đại học được tự chủ, tự chịu trách nhiệm nhiều hơn về đầu vào, đầu ra của trường mình.

Họa sĩ Phạm Ngọc Liệu
(Quận Ba Ðình, Hà Nội)

* Việc tăng hay không tăng học phí là một vấn đề gây tranh cãi từ nhiều phía, nguyên nhân sâu xa cũng chỉ do mâu thuẫn cố hữu; đó là, một mặt các trường đại học muốn đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập, tra cứu, thực hành của sinh viên để nâng cao chất lượng đào tạo. Mặt khác, việc tăng học phí sẽ phải đối mặt với thực trạng rất nhiều gia đình ở vùng nông thôn, miền núi đời sống rất khó khăn có con học đại học. Tất nhiên, có không ít gia đình không bao giờ phải lo đến mức học phí là bao nhiêu, thậm chí tiền học phí cả học kỳ đóng cho nhà trường không bằng tiền ăn sáng và tiêu vặt của sinh viên đó một tháng. Vậy, điều gây đau đầu ở đây chính là làm sao bảo đảm được sự công bằng cho tất cả các sinh viên và tạo được cho sinh viên môi trường học tập tốt nhất, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của chương trình.

Nguyễn Thanh Trà
(K47, báo chí Trường đại học Khoa học - Xã hội và Nhân văn,
Ðại học Quốc gia Hà Nội)

* Theo chúng tôi, giáo dục là một ngành phi lợi nhuận cho nên sự đóng góp phải bảo đảm cho giáo dục, nhà trường hoạt động đạt mục đích và chất lượng theo yêu cầu của những người liên đới (học sinh, giáo viên, cha mẹ học sinh, Nhà nước, cộng đồng xã hội). Một khi chi phí không đủ để duy trì giáo dục và nhà trường như vậy thì cần phải huy động sự đóng góp của xã hội. Nếu cơ sở giáo dục nào cung cấp "lợi ích" nhiều hơn thì có quyền đòi "chi phí" cao hơn và từ đó phải có đóng góp học phí lớn hơn!

Trên nguyên tắc như vậy, việc cần làm trước khi xác định mức học phí đại học là:

- Tạm phân tầng chất lượng đào tạo trong các trường đại học Việt Nam, xác định  mức chi phí đào tạo cho từng loại trường theo tầng chất lượng.

- Xác định mức đóng góp của Nhà nước về phần lợi ích mà cộng đồng xã hội được hưởng.

- Hiệu số của hai đại lượng này là phần đóng góp của người học.

GS Nguyễn Đức Chính
(ÐHQG Hà Nội)

Có thể bạn quan tâm