Tôi gặp họa sĩ Minh Hải ở mặt trận cực Nam Trung Bộ trong những ngày thần tốc tiến công của quân dân ta. Trên một quả đồi chỉ mọc toàn cây le, Hải đang say sưa vẽ bức tranh Chiến sĩ cực nam hành quân đêm trăng. Mùa khô ở đây lá le rụng hết chỉ còn trơ lại thân cành. Nom những cây le mảnh mai nhưng rất rắn rỏi. Hải ngừng tay vẽ, anh nói với tôi: "Giặc Mỹ gọi giống cây này là cây "Cộng sản" đấy. Vì nó có sức sống mãnh liệt và sinh sôi nhanh chóng lắm. Bom đạn tàn phá, chất độc rải dày đặc cũng không thể nào diệt được nó". Hải cười vui rồi anh tiếp nét vẽ.
Hải có dáng người nhỏ gầy. Nước da anh sạm xanh vì sốt rét và vì cả nắng gió của miền cực nam hun đốt. Song nom anh cũng rắn rỏi như cây le từng trải nắng mưa và bom đạn... Tôi từ miền bắc vào tìm anh đưa đến cho anh tin vui: Anh vừa có hai bức tranh: “Phá nhà lao Phan Thiết” và “Du kích Bác Ái” được trưng bày tại Phòng tranh quân đội trong dịp kỷ niệm Ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam (22-12-1974). Báo Ảnh cũng vừa in bức tranh: “Anh hùng Bi Năng Tắc” của anh. Hải cười. Nụ cười anh rộng nở. Ðôi mắt anh ánh lên niềm vui: "Những bức tranh đó và cả bức tranh đang vẽ đây, tôi đều vẽ bằng cây bút đặc biệt này. Tôi đặt tên là Cây bút cực nam mà. Rồi tôi sẽ kể sự tích về nó cho anh nghe...". Hải nói với tôi, anh mới "dô" rồi anh sẽ biết. Quân dân vùng cực nam này gian khổ lắm, ác liệt lắm. Khu cực nam mà anh. Kể sao xiết.
Giọng Hải nói đã pha nhiều âm của vùng cực Nam Trung Bộ. Song tiếng "n" nói ngọng thành tiếng "l" của vùng Hưng Yên thì còn rất rõ. Hải tâm sự với tôi. Ðầu năm 1964, anh rời Trường cao đẳng Mỹ thuật nhập ngũ vào Ðoàn văn nghệ sĩ chi viện cho chiến trường. Hải mang ba-lô đi bộ hơn sáu tháng trên đường Trường Sơn rồi dừng lại ở mặt trận cực Nam Trung Bộ. Ngày đó bài thi tốt nghiệp anh chưa kịp làm. Anh hứa với thầy giáo, với bạn rằng, những tác phẩm anh vẽ về chiến trường sẽ là bài thi ra trường của anh.
Hải về đơn vị "Lá bép" (đơn vị ăn lá bép rừng thay cơm) ở với chiến sĩ. Rồi anh về mặt trận Ninh Thuận sống với du kích chiến khu Bác Ái, sống với bà con Rắc Lây... Anh lên Blao, vào Phan Thiết... Hải làm chông, làm bẫy đá đánh giặc, phá lộ, phá kìm với du kích, làm rẫy trồng ngô. Những ngày thiếu lương, Hải cùng anh em đào củ nần, củ chụp để ăn. Hải đã ra Khu Lê ở rừng ô-rô tắm lửa (thiếu nước phải đốt lửa to rồi hơ người cho mồ hôi ra để kỳ ghét). Từ trong cuộc sống gian lao đó, họa sĩ đã tìm ra vẻ đẹp hào hùng của người chiến sĩ cực nam để đưa vào nét vẽ.
Ở chiến trường thiếu thốn mọi bề: thiếu thuốc mầu, thiếu bút..., Hải tìm đá núi có mầu nâu, mầu đỏ, mầu xám về mài, hái quả dành thay mầu vàng, lấy lá khoai thay mầu xanh... Thiếu giấy, Hải cùng anh em thu nhặt giấy gói hàng về vuốt thẳng để vẽ. Hải cắt vỏ bom bi, lấy lò xo ở các quả pháo sáng, hỏa mù của địch tạo nên cặp vẽ... Thiếu bút, Hải cùng chiến sĩ săn bẫy thú rừng lấy râu, lấy lông nó làm các loại bút... Và, Hải đã kể cho tôi nghe về Cây bút cực nam của anh. Anh dừng nét vẽ, đưa cây bút cho tôi nhìn rồi nói. Giọng anh rất vui: "Lúc ấy là mùa khô năm 1970, cứ của ta đóng trong một hang đá của vùng núi Cà Toóc. Bọn lính Mỹ đổ quân vây, càn và sục được vào hang. Chúng bày tranh của anh vẽ ra xem. Chúng để riêng những tranh anh vẽ các tên tù binh Mỹ ta vừa bắt được. Chúng nhận ra đồng đội rồi viết tên từng đứa vào tranh. Xong, chúng lấy bút mực của anh viết một dòng chữ lên vách đá: "Việt cộng Minh Hải! Ta bầu người là họa sĩ giỏi nhất Hoa Kỳ. Bởi người vẽ các chiến hữu của ta giống quá".
Sau trận đó, Hải mất hết "đồ nghề". Về căn cứ mới bên sông La Ngà, Hải lại đi tìm đá, tìm quả rừng, nhặt nhạnh giấy gói hàng để vẽ. Và, đêm đêm, Hải lại rủ các chiến sĩ làm bẫy săn bắt thú rừng lấy lông làm bút. Thấy anh vất vả miệt mài mà không bắt được thú, cô Ðông, cô Oanh,... chiến sĩ văn thư của đơn vị đã hỏi nhỏ Hải: "Anh ơi, liệu chuôi tóc của chúng em có làm được bút vẽ đó không anh?" Hải đứng lặng nhìn Ðông, nhìn Oanh. Thực tình anh không ngờ các cô lại hỏi anh câu đó. Một lúc sau anh mới trả lời: "Cũng làm được vài loại bút. Nhưng..." Ðông nhanh nhẩu: "Nhưng làm sao. Anh ngại à. Tóc của chúng em đây, sao anh không nói". Hải nhìn mái tóc của Ðông, của Oanh cũng như mái tóc của nhiều nữ chiến sĩ khác đã ngắn đi và thưa ra nhiều vì sốt rét liên miên. Thấy Hải phân vân, Ðông nói: "Có sao đâu. Chúng em hết sốt rồi, tóc sẽ dài mà..." Rồi cô mở xắc lấy chiếc kéo cắt giấy ra, cô nghiêng đầu xuống gần Hải: "Chỗ nào làm được bút, anh cứ hớt đi...". Thấy Hải lùi ra, đứng im, Ðông nói tiếp: "Nào, anh không hớt thì Oanh và em hớt cho. Ðoạn nào, đoạn chuôi nhá có được không anh?" Ðông hất chuôi tóc ra phía trước, rồi cô hớt đoạn cuối đưa cho Hải. Tay anh run run, cầm lấy. Nắm tóc mềm, đen mượt còn thoảng hương chanh rừng, Ðông vừa gội.
Hải về tháo mấy đốt sắt ở cần ăng-ten máy thu thanh làm quản bút. Ðó là sự tích Cây bút cực nam anh đang vẽ lúc này...
Với những cây bút đó, những năm tháng ở chiến trường, Hải đã vẽ nên các bức tranh: “Ði phá kìm”, “Tiến lên toàn thắng ắt về ta”... Với Cây bút vẽ cực nam đó, Hải đã vẽ thành công hơn 300 bức tranh. Có những bức sinh động được chiến sĩ yêu thích: “Làm bẫy đá”, “Muối cách mạng”, “Bà già Rắc Lây xem ảnh Bác Hồ”... Ðặc biệt bức tranh “Bữa nay anh đã đỡ rồi”, Hải vẽ một chiến sĩ đang bị cơn sốt rét dày vò nhưng khi đơn vị được lệnh đi phục kích giặc, chiến sĩ đó vùng dậy cuốn võng mang súng cùng đồng đội vào trận. Cô quân y cầm tay anh, giữ lại. Anh nói "Bữa nay anh đã đỡ rồi cô để anh đi". Ðó là bức tranh gửi gắm nhiều tâm huyết của anh ở một vùng chiến trường gian khổ...
Minh Hải tiếp nét vẽ bức tranh anh đang vẽ dở “Chiến sĩ hành quân đêm trăng”. Trong tranh có hình ảnh một nữ chiến sĩ trẻ trung đội mũ tai bèo, một vai mang súng, vai kia mang chiếc đàn. Cô tươi cười đưa tay lên như đang vẫy vừng trăng... Tôi hỏi Hải: "Chắc đó là hình ảnh...". Anh nói ngay: "Vâng, đó là Ðông. Ðông đã hy sinh trong một chuyến đi tải lương. Và, tôi đang vẽ hình cô bằng cây bút của mái tóc cô..." giọng anh họa sĩ trầm lắng xuống. Lát sau, anh nói tiếp với tôi: "Mười một năm gắn bó với chiến trường khu cực Nam Trung Bộ, tôi chỉ mong ước dựng được phòng tranh nói về những năm tháng gian lao đói cơm, thiếu muối, lấy củ rừng làm lương, lấy vỏ cây làm áo nhưng ta đã kiên cường và chiến thắng để thế hệ mai sau biết tới ngày hôm nay...". Ngay chiều ấy, được tin quân ta tiến công giải phóng vùng Tánh Linh, Hoài Ðức đập nát một chốt "tử thủ" của địch ở phía bắc Sài Gòn, Hải cùng chúng tôi lên đường đến đó. Trên đường đi, Hải đã bị thương vì pháo địch. Rồi anh phát bệnh nhiễm chất độc hóa học. Họa sĩ Minh Hải hy sinh.
BA mươi năm rồi, rừng le cực nam xào xạc gió, hang đá vùng căn cứ Cà Toóc năm xưa đã thành một di tích chiến tranh. Cô Ðông đã không trở về. Cô Oanh đã thành bà nội, bà ngoại ở đất hoa Ðà Lạt... Không bao giờ còn cảnh phải "tắm lửa" trong rừng ô-rô. Cũng không bao giờ phải ăn lá bép, củ nần thay cơm, ăn tro than thay muối... Ðồng đội trong rừng le ngày ấy đã "Bạn về xứ bạn ấm thôn làng". Còn chúng tôi những nhà báo sống ở chiến trường: Anh Ngọc, Hà Ðình Cẩn... vào dịp tháng Tư hằng năm mỗi lần nhắc đến những kỷ niệm về họa sĩ Minh Hải lại bâng khuâng nhớ đến lời anh và những ước mơ của anh...