Lịch sử vấn đề
Theo ghi chép của Cựu Ước trong Kinh Thánh, cách đây 5.000 năm, tổ tiên người Do Thái (ngày ấy gọi là người Hebrew) đang sống du mục trên bán đảo A-rập thì được Thượng Đế trao cho xứ Canaan – một dải đất hẹp phía tây chạy dài giáp Địa Trung Hải, phía đông giáp sông Jordan và Biển Chết, phía bắc giáp dãy núi Hermon biên giới với Li-băng, phía nam giáp bán đảo Sinai.
Vào khoảng giữa thiên niên kỷ III và II trước công nguyên (CN), người Do Thái đến Canaan định cư. Nhưng năm 1710 trước CN, do nạn đói, họ phải tạm lánh sang Ai Cập cho tới năm 1251 trước CN mới trở về Canaan, lúc này đã bị người Philistine chiếm.
Hai bên đánh nhau, người Do Thái thắng và xây dựng vương quốc Do Thái ở Canaan. Tại đây có cả người A-rập sống chung, nhưng người Do Thái chiếm đa số trong suốt 1.600 năm (1000 trước CN - 636 sau CN). Thời kỳ 1000 - 597 trước CN, vương quốc Do Thái phát triển phồn vinh, tuy có những thời gian bị người Assour, Babylon, Ba Tư, Hy Lạp, Ai Cập và La Mã xâm lược.
Năm 168 trước CN, đế quốc La Mã chiếm vương quốc Do Thái trong sáu thế kỷ và đổi tên là Judea Palestine theo cách gọi của người Philistine. Xứ Canaan được gọi là Palestine; người A-rập sống ở đây được gọi là người Palestine. Người Do Thái buộc phải phân tán sống lưu vong ở nhiều nước châu Âu. Đầu CN, đạo Ki-tô ra đời và phát triển mạnh, đạo Do Thái bị coi là dị giáo, người Do Thái bị các tín đồ Ki-tô giáo nhiều nơi hắt hủi xua đuổi, vì thế họ lại trở về Palestine định cư.
Năm 637 sau CN, người A-rập chiếm xứ Palestine. Trong 1.300 năm tiếp theo, tiếng A-rập và đạo Islam (ta thường gọi là Hồi giáo*) chiếm ưu thế ở xứ này, nhưng người Do Thái vẫn tồn tại như một dân tộc thiểu số; quan hệ giữa hai dân tộc này không căng thẳng.
Thời gian 1099-1291, xứ Palestine bị Thập tự quân Ki-tô giáo chiếm; người Do Thái ở đây bị ngược đãi, tàn sát. Thập tự quân vấp phải sự chống đối của người A-rập và Do Thái. Năm 1291, người Mameluk theo đạo Islam đánh đuổi Thập tự quân rồi cai trị Palestine.
Từ năm 1517, xứ này bị đế quốc Ottoman của Thổ Nhĩ Kỳ cai trị trong bốn thế kỷ; người Do Thái vẫn bị ngược đãi. Tuy vậy họ vẫn tiếp tục từ châu Âu, chủ yếu từ Nga, di cư về Palestine. Thời gian 1880-1914, có 60 nghìn người Do Thái đến đây; họ mua đất của người địa phương với giá cực cao để sống trên mảnh đất mà Kinh Thánh nói là của họ. Năm 1909, họ xây dựng một thành phố mới là Tel Aviv. Năm 1914, ở Palestine có 500 nghìn người A-rập và 90 nghìn người Do Thái.
Năm 1917, sau khi thắng cuộc chiến tranh với Thổ Nhĩ Kỳ, đế quốc Anh chiếm vùng Trung Đông, trong đó có xứ Palestine. Sau đó Chính phủ Anh ra Tuyên ngôn Balfour hứa ủng hộ việc lập nhà nước của người Do Thái trên xứ này; điều đó đã kích thích chủ nghĩa Phục quốc Do Thái (tức Zionism, đòi lập nhà nước Do Thái) phát triển.
Tổ chức Zionism trình lên Hội nghị Hoà bình Paris (1-6-1919) bản đồ yêu cầu lãnh thổ của họ, nhưng bị bác bỏ. Năm 1920 Hội Quốc Liên thừa nhận Anh quốc được quyền uỷ trị xứ Palestine. Từ đó, người Do Thái khắp nơi đẩy mạnh di cư về đây. Thời gian 1920-1925, Quỹ Dân tộc Do Thái chi 1 triệu đồng bảng Ai Cập mua đất vùng thung lũng Jezreel để định cư. Năm 1928, xứ Palestine có 590 nghìn người A-rập và 150 nghìn người Do Thái.
Lo ngại trước dòng người Do Thái đến đây ngày một tăng, từ năm 1920, người A-rập ở xứ Palestine bắt đầu tấn công họ; người Do Thái tổ chức tự vệ. Cảnh sát Anh ngăn cấm hai bên đánh nhau, nhưng không thành công, vì hai cộng đồng này sống xen kẽ nhau.
Sau năm 1917, người Do Thái ở châu Âu ủng hộ cách mạng vô sản Nga, vì thế họ bị người châu Âu tẩy chay, xua đuổi, giết hại ngày một nhiều, nhất là sau khi Hitler lên cầm quyền ở Đức (1933) và thi hành chính sách dùng bạo lực thẳng tay đàn áp, xua đuổi, tàn sát người Do Thái. Họ phải di cư sang các nước khác. Chỉ trong ba năm kể từ 1933, người Do Thái ở Palestine đã tăng từ 230 nghìn lên 400 nghìn, bằng 1/3 số người A-rập, và đến năm 1940 đã gần bằng nhau. Người A-rập càng tăng cường tấn công và phá ruộng vườn nhà cửa của người Do Thái. Cảnh sát Anh ngăn cấm và đàn áp các cuộc xung đột, nhưng bị người A-rập đánh trả.
Năm 1937, Chính phủ Anh kiến nghị tách Palestine ra làm hai nước, một của người A-rập, một của người Do Thái, riêng hành lang từ Jerusalem đến Jaffa sẽ do Anh kiểm soát. Người Do Thái miễn cưỡng tán thành, người A-rập phản đối đề nghị này. Xung đột leo thang; người Do Thái kháng cự ngày càng mạnh và dần dần thắng thế.
Bản đồ Israel và Nhà nước Palestine năm 2007.
Tháng 11-1947, Đại Hội đồng LHQ biểu quyết nhất trí quyết định tách Palestine thành hai nhà nước, một của người A-rập, một của người Do Thái, và lập Liên minh Kinh tế hai nước . Thành phố Jerusalem được xác định là khu vực quốc tế; và vẫn có một số khu định cư của người Do Thái nằm trong vùng đất chia cho người A-rập; nghĩa là vẫn sống xen kẽ nhau. Người Do Thái tán thành, người A-rập phản đối quyết định trên. Tháng 5-1948, quân đội Anh rút khỏi Palestine.
Ngày 14-5-1948, nhà nước Israel của người Do Thái tuyên bố thành lập. Ngay lập tức, quân đội Ai Cập, Jordan, Syria, A-rập Xê-út và Li-băng lập tức tiến công Israel, nhưng vấp phải sự chống trả mạnh.
Năm 1949, Israel ký hiệp định ngừng bắn riêng rẽ với các nước A-rập; theo đó, Jordan chiếm phía Tây sông Jordan, Ai Cập chiếm dải Gaza; nhưng không bên nào bảo đảm sự tự trị của người Palestine.
Thời gian 1951-1956, các nhóm khủng bố Palestine được các nước A-rập giúp đỡ ra sức tấn công Israel. Liên Xô tăng cường ảnh hưởng tại Trung Đông bằng việc viện trợ quân sự cho các nước A-rập. Mỹ cũng thay dần vai trò của Anh, Pháp tại vùng này và viện trợ mạnh cho Israel.
Tháng 10-1956, Israel xâm phạm vùng Sinai của Ai Cập. Quân đội Anh, Pháp can thiệp giúp Israel. Ngày 6-11-1956, LHQ tổ chức ngừng bắn giữa hai bên dưới sự giám sát của Lực lượng Khẩn cấp LHQ; lực lượng này ở đây cho tới ngày 19-5-1967.
Năm 1964, Tổ chức Giải phóng Palestine PLO ra đời với nòng cốt là lực lượng Fatah của ông Arafat, nhằm đấu tranh chống lại sự chiếm đóng của Israel. Trụ sở của PLO mới đầu đặt ở Jordan, nhưng sau một cuộc nội chiến đẫm máu, PLO bị trục xuất, phải chuyển sang Li-băng, rồi các nước A-rập khác. Năm 1974, LHQ công nhận PLO là đại diện của nhân dân Palestine.
Tháng 5-1967, theo yêu cầu của Ai Cập, Lực lượng LHQ rút khỏi Sinai. Sau đó Ai Cập chiếm dải Gaza và phong toả cảng Akaba của Israel. Ngày 5-6-1967, Israel tiến hành cuộc “Chiến tranh sáu ngày”, chiếm dải Gaza, bán đảo Sinai sát kênh đào Suez, khu Đông Jerusalem, cao nguyên Golan của Syria và vùng Bờ Tây sông Jordan. Cuộc chiến kết thúc ngày 10-6 theo các thoả thuận ngừng bắn do LHQ thu xếp. Israel chiếm được một vùng đất rộng của các nước đối địch.
Ngày 6-10-1973, đúng ngày lễ Chuộc Tội – lễ thiêng liêng nhất của người Do Thái – Ai Cập và Syria bất ngờ tấn công Israel. Quân đội Israel phản công thắng lợi, vượt qua kênh Suez. Ngày 24-10, hai bên ngừng bắn và Lực lượng Gìn giữ Hoà bình LHQ tiến vào khu vực này. Theo Hiệp định 18-1-1974, Israel rút quân ra khỏi bờ Tây kênh Suez.
Tháng 11-1977, Tổng thống Ai Cập Sadat thăm Jerusalem. Ngày 26-3-1979, Ai Cập và Israel ký Hoà ước kết thúc cuộc chiến tranh kéo dài 30 năm. Năm 1982, Israel trả lại bán đảo Sinai cho Ai Cập.
Tuy vậy người A-rập các nước khác vẫn tiếp tục tấn công Israel. Để trả đũa các phần tử khủng bố người Li-băng, tháng 3-1978, Israel tấn công nước này. Về sau, tuy Israel có rút quân ra khỏi Li-băng nhưng vẫn giúp đỡ các lực lượng vũ trang Ki-tô giáo ở đây chống lại các nhóm vũ trang đạo Islam.
Tháng 6-1981, máy bay Israel ném bom phá huỷ Lò phản ứng nguyên tử của Iraq ở gần Baghdad. Năm sau, Israel lại tiến vào Li-băng, phá trụ sở của PLO, khiến PLO phải chuyển sang nước khác. Quân Israel tiến vào Tây Beirut sau khi Tổng thống mới bầu của Li-băng là Bashir Gemayel bị ám sát ngày 4-9-1982.
Năm 1988, PLO tuyên bố thành lập nhà nước Palestine độc lập trên Bờ Tây sông Jordan và dải Gaza (bị Israel chiếm từ 1967). Israel và Mỹ phản đối tuyên bố này. Người Palestine nổi dậy chống lại sự chiếm đóng của Israel. Bạo lực lại leo thang.
Sau cuộc chiến tranh vùng Vịnh đầu năm 1991, tháng 9-1993, PLO tuyên bố thừa nhận quyền tồn tại của Israel và Israel thừa nhận PLO là đại diện của người Palestine. Ngày 13-9-1993, hai bên ký thoả thuận về quyền tự trị có hạn chế của người Palestine ở vùng Bờ Tây và dải Gaza . Ngày 25-7-1994, Israel và Jordan ký tuyên bố chấm dứt chiến tranh 46 năm giữa hai nước.
Được Tổng thống Mỹ Clinton đạo diễn, ngày 23-10-1998, lãnh tụ Palestine Arafat và Thủ tướng Israel Netanyahu ký thoả thuận, theo đó, Israel đồng ý trả thêm đất Bờ Tây cho Palestine theo chính sách “đổi đất lấy hoà bình”.
Ngày 24-5-2000, Israel rút quân khỏi Li-băng. Tháng 6-2001, ông Sharon (theo đường lối cứng rắn) lên làm Thủ tướng Israel. Người Palestine tăng cường đánh bom tự sát giết dân thường Do Thái. Israel đáp trả bằng vũ khí hiện đại và bao vây trụ sở làm việc của ông Arafat. Hai bên đều có thương vong, phía Palestine chết nhiều hơn.
Tháng 6-2003, Tổng thống Mỹ G.W.Bush gặp Thủ tướng Israel Sharon và Thủ tướng Palestine Abbas, đưa ra sáng kiến “Lộ trình Hoà bình” khu vực Trung Đông. Tuy lãnh đạo hai bên thoả thuận ngừng bắn, nhưng các phần tử quá khích của hai bên vẫn tiếp tục chiến đấu theo kiểu “hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”.
----
Chú thích : (*) Hồi Giáo là “Tôn giáo của dân tộc Hồi”. Đây là cách dùng từ ngày xưa của Trung Quốc. Sau khi nước CHND Trung Hoa ra đời, chính phủ Trung Quốc đã có văn bản cấm dùng từ này mà dùng “Islam giáo”, vì đây không phải là tôn giáo của riêng dân tộc Hồi mà có nguồn gốc từ xứ A-rập, mãi sau mới truyền vào Trung Quốc, trước tiên qua vùng dân tộc Hồi sinh sống (ở miền Tây bắc Trung Quốc) nên lầm tưởng là tôn giáo của người Hồi .
Kỳ tới: Tình hình gần đây