Nước ta ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, nhất là từ khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Tình hình đó đặt ra cho Hải quan Việt Nam nhiều nhiệm vụ bức thiết, đòi hỏi ngành hải quan phải làm một cuộc "cách mạng", chuyển từ kiểm tra hàng hóa trước khi thông quan sang kiểm tra sau thông quan (hậu kiểm).
Thực tế cho thấy, lực lượng kiểm tra sau thông quan đang ngày càng đáp ứng tốt các yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế và nhiệm vụ chống thất thu cho ngân sách Nhà nước.
Trước đây, hàng hóa, chứng từ của hàng hóa phải được kiểm tra trước khi thông quan. Cách làm này tốn nhiều thời gian, ảnh hưởng đến các doanh nghiệp. Khi đất nước ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới thì cách làm này cũng ngày càng trở nên lạc hậu không hiệu quả. Giá cả hàng hóa liên quan đến chi phí đầu vào, trong đó có chi phí về các thủ tục hành chính, bao gồm thủ tục hải quan.
Chỉ có thông quan nhanh, với chi phí thấp nhất, Hải quan mới thật sự góp phần vào việc nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam.
Trong bối cảnh hệ thống luật pháp về hoạt động xuất nhập khẩu còn thiếu, chưa đồng bộ, việc chấp hành pháp luật chưa thành thói quen, tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế còn khá nghiêm trọng, thì bên cạnh việc tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu (XNK), là phải bảo đảm quản lý nhà nước về hải quan, ngăn chặn gian lận, bảo đảm nguồn thu ngân sách để đáp ứng yêu cầu chi phục vụ lợi ích cộng đồng, an sinh xã hội.
Với khối lượng công việc không ngừng tăng lên hằng năm (năm 2007 có khoảng 27.000 doanh nghiệp, XNK 2,5 triệu lô hàng, kim ngạch khoảng 108 tỷ USD), ngành hải quan đã phải làm một cuộc cách mạng trong hoạt động kiểm tra hải quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu. Cuộc cách mạng đó là chuyển hẳn từ "tiền kiểm" sang "hậu kiểm".
Theo đó, khi qua cảng, cửa khẩu, phần lớn hàng hóa, chứng từ hàng hóa chưa phải kiểm tra hoặc chỉ kiểm tra sơ bộ để hàng hóa được thông quan rất nhanh, đưa ngay vào sản xuất, lưu thông, giảm hầu hết thời gian lưu hàng tại cảng, giảm căn bản tiền lưu kho, lưu bãi. Việc kiểm tra sẽ được lựa chọn và thực hiện sau khi hàng hóa đã thông quan.
Ðây là nhiệm vụ hết sức nặng nề, liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp. Các kết luận hậu kiểm đòi hỏi phải chính xác. Vì vậy, cán bộ, công chức làm công tác này phải có chuyên môn nghiệp vụ sâu, kỹ năng nghiệp vụ tốt và phải có kinh nghiệm hoạt động thực tiễn.
Cục trưởng Cục kiểm tra sau thông quan, Tổng cục Hải quan Phạm Thanh Bình cho biết, công tác đào tạo, chuẩn hóa đội ngũ cán bộ kiểm tra sau thông quan đã được đặc biệt quan tâm. Hai năm gần đây đã đào tạo hàng trăm lượt người về nghiệp vụ áp dụng trong hoạt động hậu kiểm như: kiểm tra chứng từ thương mại, thanh toán quốc tế, kế toán, kiểm toán, điều tra, giám định tài liệu, kỹ năng xử lý vi phạm hành chính và tham gia tố tụng tại các tòa án hành chính.
Ðến nay có thể nói, đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác hậu kiểm đã trưởng thành, với tổng số 455 người, trong đó 94% số người có trình độ đại học và trên đại học, bước đầu đáp ứng được yêu cầu xây dựng lực lượng chuyên nghiệp.
Hậu kiểm là một giải pháp cải cách hành chính của Hải quan mà mục tiêu lớn nhất là tạo thuận lợi cho hoạt động XNK của doanh nghiệp. Tuy nhiên, không phải ngay từ đầu các doanh nghiệp và một số cán bộ, công chức Hải quan đã nhận thức được như vậy. Doanh nghiệp thì lo ngại không rõ "hậu kiểm" có thuận lợi hơn "tiền kiểm" hay không?
Và liệu doanh nghiệp có được hưởng lợi gì từ việc này? Hải quan các cửa khẩu thì lại lo lắng: liệu lực lượng hậu kiểm có bảo đảm kiểm soát được tình hình để họ vững tin áp dụng thủ tục hải quan đơn giản cho hàng hóa của doanh nghiệp? Ðó là những câu hỏi đặt ra cho lực lượng hậu kiểm phải tìm lời giải đáp.
Qua cách làm thực tế, lực lượng hậu kiểm đã dần dần giải tỏa được tâm lý lo ngại đó. Hậu kiểm không phải lúc nào cũng nhằm đi tìm và xử lý các sai phạm, mà trước hết là để đánh giá năng lực và thực tế tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp, từ đó giúp doanh nghiệp nắm rõ hơn về quy định của pháp luật, khắc phục những sai sót.
Ðồng thời khi đã được hậu kiểm đánh giá là chấp hành tốt pháp luật thì đánh giá đó được đưa vào "lý lịch" của doanh nghiệp, từ đó, doanh nghiệp sẽ được tạo thuận lợi ở mọi khâu quản lý của cơ quan Hải quan. Tuy là kiểm tra doanh nghiệp, nhưng hoạt động kiểm tra lại trước hết và chủ yếu là kiểm tra tại cơ quan hải quan.
Khi phát hiện những vấn đề nghi vấn thì trước hết doanh nghiệp tự kiểm tra lại, làm rõ và khắc phục. Chỉ khi nào đã tiến hành các giải pháp nói trên mà vẫn còn vấn đề chưa được giải quyết thì mới kiểm tra tại doanh nghiệp.
Với quy trình đó, hầu như hoạt động hậu kiểm không làm ảnh hưởng gì đến hoạt động kinh doanh bình thường của tuyệt đại bộ phận các doanh nghiệp. Thực tế năm năm qua, trong số khoảng 30 nghìn doanh nghiệp có hoạt động XNK và khoảng 1.600 cuộc kiểm tra, lực lượng hậu kiểm mới chỉ kiểm tra tại doanh nghiệp khoảng 100 trường hợp.
Hậu kiểm còn tạo sự công bằng trong cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Trước hết, hậu kiểm bảo đảm mọi doanh nghiệp XNK đều phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế, tạo nên sự công bằng giữa các doanh nghiệp, giữa hàng hóa sản xuất trong nước và hàng hóa nhập khẩu. Mặt khác còn giúp hải quan cửa khẩu mạnh dạn cải cách thủ tục hành chính.
Tuy số trường hợp kiểm tra tại doanh nghiệp rất ít, nhưng lực lượng hậu kiểm vẫn kịp thời phát hiện và giải quyết được những vấn đề nổi cộm. Nhiều sai sót, vi phạm lớn khâu thông quan không có điều kiện phát hiện đã được lực lượng hậu kiểm phát hiện.
Các phát hiện của quá trình hậu kiểm được kịp thời thông tin lại cho hải quan cửa khẩu để ngăn ngừa việc phát sinh thêm. Nhờ vậy, hải quan cửa khẩu tránh được sai sót, mạnh dạn hơn trong việc cải tiến thủ tục thông quan.
Hậu kiểm cũng góp phần hoàn thiện cơ chế, chính sách, giải pháp quản lý. Ðặc thù của hải quan là phải thực thi rất nhiều quy định của chính sách, pháp luật, do nhiều cơ quan quản lý nhà nước ban hành. Do các nguyên nhân khác nhau, nhiều cơ chế, chính sách và việc thực hiện các cơ chế, chính sách đó có những sơ hở, bất hợp lý.
Thông qua hoạt động kiểm tra, lực lượng hậu kiểm đã phát hiện những sơ hở, bất hợp lý đó, kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung. Thí dụ khi kiểm tra về mã số, thuế suất hàng hóa, lực lượng hậu kiểm đã phát hiện thuế suất một số mặt hàng thể hiện sự chưa thống nhất giữa chủ trương, định hướng phát triển ngành hàng với thuế suất mặt hàng đó, gây thắc mắc cho doanh nghiệp, đã kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, hoàn thiện.
Hậu kiểm góp phần quan trọng vào việc nâng cao năng lực hội nhập của hải quan Việt Nam, nâng tầm của hải quan Việt Nam trong quan hệ quốc tế. Hải quan là một lĩnh vực có tính quốc tế rộng rãi và Hải quan Việt Nam cũng là một trong những ngành tham gia hội nhập quốc tế sớm nhất.
Tuy nhiên, năng lực góp phần bảo vệ quyền lợi quốc gia, bảo vệ sản xuất trong nước còn hạn chế. Hải quan Việt Nam mới chỉ thực hiện được phần nghĩa vụ, còn phần rất quan trọng và quyền thì rất yếu. Bằng nghiệp vụ chuyên sâu, lực lượng hậu kiểm đã thật sự thực hiện được quyền của Hải quan Việt Nam.
Lần đầu tiên từ khi Việt Nam tham gia ASEAN, hải quan Việt Nam đã phát hiện và xử lý được một số trường hợp hàng hóa nhập khẩu không đáp ứng tiêu chuẩn xuất xứ ASEAN, truy thu những khoản thuế lớn, bảo vệ sản xuất trong nước. Ðặc biệt hậu kiểm đã góp phần quan trọng trong việc chống thất thu cho ngân sách Nhà nước.
Mới chỉ qua năm năm hoạt động, lực lượng này đã thu về cho ngân sách Nhà nước hơn 400 tỷ đồng, trong đó năm sau luôn cao hơn nhiều so với năm trước.
Chẳng hạn kiểm tra việc nhập khẩu các mặt hàng lỏng, hàng rời, truy thu từ mặt hàng xăng dầu 53,5 tỷ đồng, từ các mặt hàng rời 66,5 tỷ đồng, từ thép lá nhập khẩu hơn 30 tỷ đồng, ô-tô nhập khẩu của một số công ty liên doanh trong lĩnh vực vận tải hành khách công cộng là 36,5 tỷ đồng...
Lực lượng hậu kiểm đang đặt ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2010 phải bảo đảm cho khâu thông quan cải tiến, đơn giản hóa thủ tục, thông quan nhanh hàng hóa, tạo thuận lợi tối đa cho hoạt động XNK của các doanh nghiệp.
Hậu kiểm phải góp phần hoàn chỉnh cơ chế, chính sách, pháp luật, ngày càng thuận lợi hơn cho doanh nghiệp, nhưng vẫn bảo đảm sự quản lý của nhà nước, chống được thất thu thuế, bảo đảm nguồn thu ngân sách Nhà nước và góp phần nâng cao năng lực hội nhập của hải quan Việt Nam, năng lực bảo vệ quyền lợi quốc gia, bảo vệ sản xuất trong nước trong quan hệ kinh tế quốc tế.
Vũ Hoàng Long