Vì sao lại "Tấn phong" Quốc Bảo?
Bộ long bào của vua Lê Dụ Tông gồm áo, khăn che mặt và một đôi hia. Trên áo và khăn che mặt thêu 9 rồng cùng hoa văn mây lửa, sóng nước cực kỳ công phu. Đặc biệt, trên áo và đôi hia đều có thêu lẫn nhiều sợi kim tuyến (sợi chỉ bằng vàng, bạc thật). Bộ áo này rất quý vì đó là tấm long bào vua mặc thời Lê duy nhất được tìm thấy, chứa đựng tinh hoa của kỹ thuật thêu Việt Nam thế kỷ 16.
Tấm gấm dệt tìm được trong mộ hoạn quan Nguyễn Bá Khanh có kích thước rộng 1m - dài 4m, dệt văn hoa cúc, mẫu đơn, hoa lựu. Điều đặc biệt của tấm gấm này do chính ông Việt phát hiện ra khi đem hỏi các nghệ nhân làng lụa Vạn Phúc (Hà Đông). Trên một tấm gấm dệt, chiều dài tính từ hoa văn đầu tiên cho đến khi nó lặp y nguyên lại trên vải được gọi là một "bước dệt" (các nghệ nhân Vạn Phúc gọi là một "ra-pô". Một "ra-pô" trên lụa Vạn Phúc thông thường dài khoảng 30 - 50cm là hết cỡ. Nhưng ra-pô ở trên tấm gấm này dài tới 1,4m. Khi ông Việt đưa các cụ nghệ nhân đi xem tấm lụa này, các nghệ nhân Vạn Phúc lắc đầu không tưởng tượng làm sao có thể dệt ra tấm lụa có "ra-pô" dài đến thế. Các cụ tính ra để dệt một tấm lụa như vậy bằng máy dệt bán công nghiệp, cần cả một ngôi nhà lớn để treo 7.000 miếng bìa (giữ chỉ). Theo ông Việt cho biết, ngay Bảo tàng lụa Thượng Hải - TQ cũng không có được một tấm lụa ngoại cỡ đặc biệt như vậy. Hiện nay ông Việt và các chuyên gia Nhật đang tiến hành xác định xem tấm lụa này được chế tác Việt Nam, Trung Quốc, Triều Tiên hay Nhật Bản.
Cả hai bộ gấm quý (một đang để ở Bảo tàng Lịch sử, một ở Bảo tàng tỉnh Hưng Yên) đang hư hỏng nặng. Xuống cấp nhất là tấm long bào, động tới có thể mủn rách. Bình thường, chúng chỉ được gói lại sơ sài rồi cất trong kho, quá trình tự phân hủy diễn ra rất nhanh. Ông Việt hy vọng việc tấn phong "quốc bảo" cho hai hiện vật vải độc nhất vô nhị này sẽ đem lại một chế độ bảo quản và trưng bày tốt hơn hiện nay...
Sự cần thiết của khảo cổ học vải sợi
Theo lối khảo cổ học cũ, thì bùn đất trong các ngôi mộ thường bị bỏ đi, hoặc vò nhuyễn ra để tìm xương, đồ gốm, đồng, đá... Nhưng trong những khối bùn rất này, rất nhiều hiện vật khảo cổ có nguồn gốc hữu cơ và thực vật như vải sợi, tre nứa, hạt quả, lúa gạo... tuy bị phân huỷ nhưng chưa rã nát, có thể dùng phương pháp khoa học để phục chế lại được. Năm 2000, khi mộ cổ Châu Can (Hà Tây) được khai quật, TS Nguyễn Văn Việt biết tin muộn, xuống đến nơi chỉ xin được một khối đất to bằng cái va li. Ông đem khối đất này về lọc nước và dùng hóa chất "hãm" lại được 118 miếng vải thời Đông Sơn. Đồ đồng, đá thời Đông Sơn đã được tìm thấy rất nhiều, nhưng đây là lần đầu tiên vải thời này được tìm thấy và phục chế.
Từ đó, ông Việt mới đi sâu vào nghiên cứu khảo cổ học vải sợi. Qua những lần khai quật ở Châu Can, Động Xá (Hưng Yên), các hang dộng đá vôi Hòa Bình, Sa Pa, qua những nghiên cứu về vải, lụa ở trong nước và nước ngoài, Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á đã xây dựng được bộ môn Khảo cổ học vải sợi Việt Nam, nằm trong nhánh khảo cổ học các loại vật chất có nguồn gốc hữu cơ, nhằm nghiên cứu xem người xưa ăn, mặc... như thế nào.
Hiện nay Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á cũng là trung tâm khảo cổ học vải sợi lớn nhất Đông Nam Á, với trên 4.000 tiêu bản vải và hàng nghìn tiêu bản lúa, hạt, quả... Trước khi có Khảo cổ học vải sợi, gần 80% hiện vật khảo cổ thường xuyên bị bỏ đi.
Cuối năm ngoái, phối hợp với Viện Khảo cổ và chuyên gia Australia, TS Nguyễn Văn Việt khai quật được nguyên vẹn một ngôi mộ thuyền ở Động Xá với mục tiêu dành cho khảo cổ học vải sợi. Ngôi mộ này chôn cất một thiếu niên Đông Sơn 15 tuổi, trên mình bó rất nhiều lớp vải áo và cói. Hiện ông đang cùng chuyên gia Australia dùng kỹ thuật hiện đại "bóc tách" từng lớp áo trên di hài (vốn đang ở trong trạng thái gần như bùn). Đến khoảng tháng 6 năm nay, khi công việc hoàn thành, lần đầu tiên chúng ta sẽ được nhìn thấy diện mạo những bộ quần áo còn nguyên của người Việt cổ thời Đông Sơn.