Thuốc BVTV sinh học có 734 tên thương phẩm, chiếm 18,26% trong tổng số thuốc BVTV có trong danh mục, nhưng tỷ lệ sử dụng các loại thuốc này còn ở mức thấp.
Cả nhà nông và doanh nghiệp đều chưa "mặn mà"
Giám đốc HTX Xuân Thành, xã Lương Hòa, huyện Châu Thành (tỉnh Trà Vinh) Nguyễn Thành Luận cho biết, HTX hiện đang canh tác khoảng 120 ha các loại rau màu, trong đó chủ yếu là các loại rau ăn lá. Bình quân mỗi ngày HTX cung cấp ra thị trường khoảng 20 tấn rau quả. Chi phí đầu vào sản xuất rau màu lớn, trong đó thuốc BVTV chiếm khoảng từ 25% đến 30% tổng chi phí. Chỉ cần một cú huých nhẹ về giá, lợi nhuận của nông dân sụt giảm ngay. Khi chúng tôi hỏi về tỷ lệ sử dụng thuốc BVTV sinh học, ông Luận cho biết, bà con rất ít sử dụng vì giá thuốc BVTV sinh học đắt mà hiệu quả phòng trừ sâu bệnh thấp. Nhiều trường hợp hội viên mua thuốc về xịt mà không diệt được sâu. Chủ yếu chúng tôi vẫn phải dùng thuốc BVTV hóa học và tuân thủ đúng quy trình, kỹ thuật sử dụng.
Phó Cục trưởng Cục BVTV Huỳnh Tấn Ðạt cho biết, nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng thuốc sinh học, nhất là các chế phẩm sinh học còn ít được sử dụng trong sản xuất chủ yếu do người dân có thói quen sử dụng thuốc BVTV hóa học từ nhiều năm. Thuốc BVTV sinh học phát huy hiệu lực chậm hơn thuốc hóa học. Thêm vào đó, chi phí sử dụng thuốc BVTV sinh học cao hơn, khó bảo quản, khó sử dụng hơn so với thuốc hóa học. Người sử dụng phải có hiểu biết, kinh nghiệm trong sử dụng mới đem lại hiệu quả như mong muốn. Trong khi nhận thức về vai trò của thuốc BVTV sinh học và hiểu biết về cách sử dụng để đạt hiệu quả cao của thuốc sinh học của người dân còn hạn chế. Các tiến bộ kỹ thuật của thuốc BVTV sinh học trong nước còn thiếu và rất hạn chế, chất lượng chưa cao; chưa xây dựng được đội ngũ cán bộ khoa học đầu ngành về thuốc BVTV sinh học để có những kết quả nghiên cứu có tính đột phá và áp dụng rộng rãi trong thực tiễn.
Ðối với lĩnh vực sản xuất thuốc BVTV sinh học, các doanh nghiệp cũng thiếu mặn mà. Theo phản ánh, mặc dù Nhà nước đã có nhiều chính sách ưu tiên phát triển thuốc BVTV sinh học nhưng chưa đủ mạnh để tạo được động lực thúc đẩy các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh. Tổng Giám đốc Công ty TNHH Tập đoàn An Nông Trương Thị Thủy Trường cho biết, doanh nghiệp cần nhất là các quy định hỗ trợ cụ thể về vốn, miễn giảm thuế trong sản xuất cũng như nhập khẩu, kinh doanh, nhưng đến nay vẫn chưa có chính sách nào quy định cụ thể. Các thủ tục, chỉ tiêu đăng ký các thuốc BVTV sinh học đã cắt giảm đáng kể so với thuốc hóa học như miễn cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất đối với các thuốc BVTV vi sinh vật; giảm phí đăng ký, số lần khảo nghiệm, chỉ tiêu yêu cầu về tài liệu khi đăng ký… nhưng nhìn chung thủ tục còn cồng kềnh, rườm rà. Nhiều thuốc BVTV sinh học có tính chuyên tính cao như: pheromone, thuốc bảo quản sau thu hoạch, chất bẫy bả mồi, chất phụ trợ… chưa có quy định cụ thể về yêu cầu kỹ thuật riêng, vẫn áp dụng quy định chung như thuốc BVTV hóa học. Một số phương pháp thử để xác định hàm lượng cụ thể đối với các loài vi sinh vật đặc thù còn khó khăn trong quá trình xây dựng, gây trở ngại cho việc nhập khẩu, sản xuất và hợp quy các sản phẩm thuốc BVTV sinh học.
Cần có chính sách hỗ trợ người sản xuất và sử dụng
Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Sản xuất và Kinh doanh thuốc BVTV Việt Nam Nguyễn Văn Sơn cho biết, để thúc đẩy thuốc BVTV sinh học phát triển, tạo động lực cho doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực này, Chính phủ và các bộ, ngành có liên quan cần xem xét giảm thuế nhập khẩu về mức 0% đối với thuốc BVTV sinh học cũng như dây chuyền công nghệ sản xuất thuốc BVTV sinh học. Ðối với vấn đề sử dụng, cần có chính sách hỗ trợ giá cho nông dân trong việc sử dụng các thuốc BVTV sinh học từ 30% đến 40% như nhiều quốc gia hiện đang áp dụng. Trong đó, tập trung vào các cây trồng có giá trị kinh tế cao, yêu cầu điều kiện về an toàn thực phẩm để phục vụ cho xuất khẩu và nhu cầu tiêu dùng trong nước. Cùng với đó, sớm sửa đổi, bổ sung, cắt giảm các quy định, các điều kiện liên quan đến thuế sản xuất và kinh doanh thuốc BVTV sinh học. Nhà nước nên có chính sách hỗ trợ vốn, cho thuê đất làm xưởng, miễn hoặc giảm thuế sản xuất, tiêu thụ cho thuốc BVTV sinh học. Cần tiếp tục rà soát, đề xuất hoàn thiện các quy định pháp luật để tạo điều kiện thuận lợi cho việc đăng ký các loại thuốc BVTV sinh học và thuốc BVTV thế hệ mới an toàn với người và môi trường. Ðồng thời, ưu tiên kinh phí tập trung cho các đề tài, dự án nghiên cứu phát triển và sử dụng thuốc BVTV sinh học khả thi, cũng như hỗ trợ tìm đầu ra cho thuốc BVTV sinh học.
Theo Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Bảo vệ thực vật Sài Gòn Nguyễn Quốc Dũng, để tăng tỷ lệ sử dụng thuốc BVTV sinh học, cơ quan chức năng cần khuyến khích người dân sử dụng thuốc BVTV sinh học ở quy mô nông hộ trên địa bàn. Ðẩy mạnh việc hướng dẫn nông dân thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (GAP), sản xuất nông sản sạch, an toàn đáp ứng yêu cầu của thị trường trong và ngoài nước, đồng thời sử dụng các loại thuốc BVTV sinh học thay thế các thuốc BVTV hóa học. Ðơn giản hơn nữa, các quy định trong đăng ký như rút ngắn quy trình cấp giấy phép khảo nghiệm, giảm chi phí đối với các việc xin cấp giấy phép khảo nghiệm, giấy chứng nhận đăng ký thuốc BVTV sinh học.
Phó Cục trưởng Cục BVTV Huỳnh Tấn Ðạt cho biết, để tăng số lượng thuốc BVTV sinh học đăng ký đạt 30% vào năm 2025, thời gian tới, ngành BVTV sẽ tiếp tục rà soát, tổng hợp các khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai các văn bản quy phạm pháp luật trong công tác quản lý nhà nước về thuốc BVTV nhằm xây dựng chính sách ưu tiên, khuyến khích đăng ký, sản xuất thuốc BVTV sinh học. Ðồng thời, rà soát, sửa đổi, bổ sung xây dựng các cơ chế, chính sách hỗ trợ người dân trong việc sử dụng thuốc BVTV sinh học nhằm tăng lượng sử dụng thuốc BVTV sinh học, bảo đảm một nền nông nghiệp an toàn và bền vững. Xây dựng chủ trương khuyến khích, ưu đãi cho phát triển thuốc BVTV sinh học, đưa thuốc BVTV sinh học vào các công tác khuyến nông gắn với việc triển khai nhân rộng các mô hình phòng trừ dịch hại theo hướng thân thiện môi trường. Cải tiến, đổi mới công nghệ sản xuất, gia công thuốc BVTV sinh học nhằm tạo ra các sản phẩm sinh học bảo đảm chất lượng, nâng cao hiệu lực phòng trừ, kéo dài thời gian bảo quản, dễ dàng sử dụng và phù hợp điều kiện sản xuất nông nghiệp của nước ta theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Ðặc biệt chú trọng đến các nhóm thuốc BVTV vi sinh vật nhóm thuốc có nguồn gốc từ thảo mộc.