(Lời Chủ tịch Hồ Chí Minh khen tặng Bộ đội Hải quân,
5-8-1965)
Cái gọi là "Sự kiện Vịnh Bắc Bộ" và trận chiến ngày 2-8-1964
Sáng ngày 5-8-1964, Nhà trắng và các phương tiện thông tin Mỹ tung ra cái gọi là Sự kiện Vịnh Bắc Bộ, dựng đứng câu chuyện Hải quân Bắc Việt Nam tiến công tàu khu trục Mỹ Ma-đốc (USS Maddox) vào ngày 2-8-1964 và tàu Tơn-nơ Gioi (USS Turner Joy) vào ngày 4-4-1964.
Ngay trong ngày hôm đó, Tổng thống Mỹ Giôn-xơn lập tức ra lệnh cho lực lượng máy bay của Hải quân bất ngờ cất cánh từ các hạm tàu tới tấp đánh phá miền bắc. Chúng gọi đó là chiến dịch Mũi tên xuyên (Operation Pierce Arrow) nhằm vào các căn cứ Hải quân, trận địa phòng không, đô thị công nghiệp ở Quảng Bình, Vinh, Thanh Hóa và Quảng Ninh, vừa triệt hạ lực lượng quân sự, vừa nhằm "khoan thủng" ý chí chống đế quốc Mỹ của nhân dân Việt Nam. Vừa lừa bịp, vừa khuyếch trương chiến quả của những đợt không kích này như đã đốt cháy một kho xăng lớn, đã tiêu diệt được một nửa số tàu của Hải quân Bắc Việt..., Quốc hội cả tin và hiếu chiến của đế quốc Mỹ thời đó trong phiên họp ngày 7-8-1964, đã thông qua Nghị quyết Ðông-Nam Á (hay còn gọi là Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ), cho phép Giôn-xơn can thiệp bằng mọi biện pháp quân sự mạnh vào bất cứ nước Ðông-Nam Á nào.
Sự thật là gì?
Bị thua đau ở chiến trường miền nam, Mỹ - ngụy biết rõ miền bắc là hậu phương lớn, là nguồn sức mạnh vô tận tiếp sức cho miền nam. Tiến công miền bắc là kế hoạch, là quy luật tất yếu của chiến tranh can thiệp và xâm lược khi đế quốc Mỹ còn muốn nuôi dưỡng ngụy quyền Sài Gòn, muốn có chỗ đứng chân ở Ðông-Nam Á. Từ đầu năm 1960, chúng đã ra rả hô hào "Bắc tiến". Chỉ tính riêng sáu tháng đầu năm 1964, không quân Mỹ đã xâm phạm vùng trời miền bắc 202 lần, trong đó có 25 lần vào ban đêm. Ngày 2-3-1964, Mỹ cho tàu khu trục xâm phạm vào biển miền bắc, làm hậu thuẫn cho các tàu hải quân ngụy đánh phá các đảo và vùng ven biển miền bắc. Sau kế hoạch Ðờ-xô-tô, ngày 17-4-1964 quân đội Mỹ đưa ra kế hoạch Ốp-lan nhằm khiêu khích và mở các cuộc oanh tạc vào miền bắc. Thực hiện kế hoạch đó, ngày 1 và 2-8-1964, các máy bay của phái hữu Lào, tay sai của Mỹ ném bom đồn biên phòng Nậm Cắn và các bản làng ở miền tây Nghệ An. Ngày 31-7-1964 tàu khu trục Ma-đốc tiến vào vùng biển Quảng Bình, rồi tiến thẳng ra bắc, có lúc cách Ðèo Ngang 8 hải lý (khoảng 13 km). Tàu Ma-đốc Mỹ hạ thủy năm 1944, có chiều dài 144,8 m, tốc độ 35 hải lý/giờ; quân số 247 tên, có hai giàn phóng ngư lôi, mỗi giàn ba ống, hai bệ phóng bom, ba bệ pháo 127 mm hai nòng, hơn hẳn trang bị của hải quân ta lúc đó.
Mọi âm mưu và hành động gây chiến của địch đều được ta nắm chắc. Ngày 27-3-1964, Bác Hồ triệu tập Hội nghị Chính trị đặc biệt. Tại đây, Người tuyên bố: "Nếu đế quốc Mỹ liều lĩnh động đến miền bắc thì nhất định chúng sẽ thất bại thảm hại". Ðồng thời Người kêu gọi quân dân miền bắc tích cực thi đua. "Mỗi người làm việc bằng hai" vì miền nam ruột thịt.
17 giờ 30 phút ngày 7-5, ngày chiến thắng Ðiện Biên, Ðại tướng Võ Nguyên Giáp đến thăm và kiểm tra sẵn sàng chiến đấu ở Quân chủng Phòng quân-Không quân.
Tháng 6-1964, Ðại tướng Văn Tiến Dũng, Tổng Tham mưu trưởng chỉ thị cho Bộ đội Hải quân: "Chín năm hòa bình xây dựng của Hải quân đến đây chấm dứt. Phải nhanh chóng chuyển mọi sinh hoạt và nền nếp đơn vị sang thời chiến".
Bộ đội Hải quân chuyển sang trạng thái thời chiến vào ngày 6-7-1964.
Lại nói về tàu Ma-đốc. Ta đã có trận địa bố phòng chặt chẽ nên nhất cử nhất động của tên hải tặc này đều được theo dõi chặt chẽ.
Phân đội 3 do Phân đội trưởng Nguyễn Xuân Bột chỉ huy, thuộc Tiểu đoàn 135 từ căn cứ X (Quảng Ninh) được lệnh lắp ngư lôi bí mật tiến vào (Thanh Hóa) để phục kích và đón đánh tàu địch. Phân đội 3 lúc này có ba tàu: 333, 336 và 339. 13 giờ 10 phút ngày 2-8, tàu Ma-đốc xâm phạm vùng biển giữa Hòn Mê và Lạch Trường (Thanh Hóa) cách đất liền 10 hải lý. Cuộc chiến đấu diễn ra từ 14 giờ 52 phút. Mưu trí, dũng cảm, vượt qua hỏa lực mạnh của định từ tàu Ma-đốc và năm máy bay yểm trợ, các tàu của ta vẫn áp sát được tàu địch ở khoảng cách sáu liên (6/10 hải lý). Ma-đốc hoảng hốt tăng tốc, chuyển hướng bứt khỏi sự đeo bám của tàu ta. Ðoàn trưởng Lê Duy Khoái lệnh cho tàu 333 bứt lên chặn đầu địch để tàu 336 và 339 áp góc mạn phải.
Ngay lúc vừa lệnh cho chiến sĩ nhằm tàu địch phóng ngư lôi, thuyền trưởng tàu 336 Nguyễn Văn Tự bị một rốc-két từ máy bay bắn trúng đã anh dũng hy sinh. Tinh thần chiến đấu của quân ta càng lên cao. Phân đội trưởng kiêm thuyền trưởng tàu 333 Nguyễn Xuân Bột bám sát tàu địch hơn nữa, khi chỉ còn cách nửa hải lý, anh lệnh cho tàu phóng lôi và dùng súng 14,5 mm bắn thẳng vào tàu địch. Trước tinh thần chiến đấu quả cảm vô song của bộ đội ta, binh lính địch vội vã rút hết xuống khoang. Nhưng lúc đó, các tàu của ta lại phải bắt đầu một cuộc chiến đấu mới không cân sức với bốn máy bay cường kích của định. Cuốn Lịch sử Hải quân có đoạn viết về con tàu 339 của thuyền trưởng Nguyễn Văn Giản như sau: "Trận đánh không cân sức giữa các tàu ta và máy bay địch diễn ra rất quyết liệt. Lợi dụng hỏa lực phòng không của ta yếu và phân tán, địch dùng máy bay đánh tập trung vào từng tàu. Sau khi phóng ngư lôi, tàu 339 lập tức chuyển sang đánh máy bay. Qua mấy đợt địch bổ nhào bắn rốc-két và ném bom, tàu đều lái tránh được. Nhưng đến đợt địch tập trung công kích từ hai phía thì tàu bị một quả đạn rốc-két bắn trúng vào khoang máy, làm tàu không thể cơ động được... Một viên đạn xuyên trúng thùng khói mù. Cả con tàu bị trùm trong làn khói đen kịt. Thuyền trưởng Nguyễn Văn Giản hội ý với Chính trị viên Mai Bá Xây bàn biện pháp đối phó trường hợp tàu địch áp sát bắt tàu ta. Tất cả vũ khí từ súng ngắn, tiểu liên đến lựu đạn được tập trung lên boong chuẩn bị chiến đấu giáp lá cà nếu địch liều lĩnh xông lên tàu ta... Hai đồng chí thợ máy Ðinh Thanh Tòng và Cao Viết Thao đã bị thương nặng vẫn cố nén đau đớn, tập trung chữa máy với quyết tâm hy sinh thân mình để cứu tàu, cứu đồng đội"...
Kết thúc trận đánh, hai tàu 336 và 339 bị hư hại một số phần trong boong và máy. Bốn cán bộ, chiến sĩ hy sinh, sáu đồng chí khác bị thương. Phía địch, tàu Ma-đốc cũng bị hư hại và phải hốt hoảng tháo chạy. Ta bắn rơi một máy bay địch, bắn hỏng một chiếc khác...
Trận đối đầu lịch sử này của Hải quân Nhân dân Việt Nam với lực lượng không quân, hải quân Mỹ mãi được ghi nhớ như một dấu son trong lịch sử chiến tranh cách mạng. Nó khẳng định: Chúng ta dám đánh, biết đánh và quyết thắng. Và thực tế những năm sau này, đã chứng minh hùng hồn điều đó.
Mồng 5-8-1964, giòn giã trận đầu đánh thắng
Cần phải nói thêm về sự bịp bợm của Nhà trắng và quân đội Mỹ khi bịa ra việc ta tiến công tàu Turner Joy vào ngày 4-8-1964. Tháng 1-2000, Hiệp hội các nhà khoa học Hoa Kỳ (FAS) đã giải mật các tài liệu quân sự và khẳng định rằng, điều đó đã hoàn toàn không xảy ra trên thực tế.
Nhưng cái có trên thực tế là, ngày 5-8-1964, Giôn-xơn đã tức tốc ra lệnh cho Hải quân Mỹ sử dụng hai biên đội của tàu sân bay Con-xten-lây-sơn và Ti-cơn-đê-rô-ga gồm 40 máy bay AD6, A4D, F8U, F4H... đồng loạt ném bom xuống các thành phố, làng mạc, căn cứ quân sự suốt dọc chiều dài từ Quảng Bình đến Quảng Ninh. Giôn-xơn định làm một cú bất ngờ. Nhưng âm mưu và kế hoạch đen tối của địch đã được ta phát hiện qua tin tức tình báo.
Trưa 5-8, Tham mưu trưởng Quân chủng Phòng không - Không quân trực chỉ huy ở Sở Chỉ huy quân chủng được lệnh sẵn sàng tiêu diệt không quân địch xâm phạm miền bắc.
Bởi vậy, bất cứ nơi nào, từ Quảng Bình đến Bãi Cháy, máy bay địch bay đến đều gặp lưới lửa phòng không dày đặc của ta ở mọi tầm, mọi hướng, của mọi lực lượng từ phòng không, hải quân đến dân quân tự vệ.
12 giờ 21 phút, máy bay địch lẻn vào thành phố Vinh. Toàn dân vào trận, sát cánh bên trung đoàn phòng không chủ lực 280 và các tàu Hải quân ở Bến Thủy, Nghi Phúc, Cửa Hội. Sau 30 phút chiến đấu, ta đã bắn rơi tại chỗ hai máy bay, diệt giặc lái.
Ngày 5-8, khẩu đội trưởng Phan Ðăng Cát thuộc Ðại đội 138, Trung đoàn 280 được phép về cưới vợ. Rời đơn vị chưa xa, anh bỗng nghe tiếng súng dội lên, liền đạp xe trở lại, bước ngay vào vị trí chiến đấu. Ba lần bị thương, anh vẫn bình tĩnh chỉ huy khẩu đội đánh trả địch và hy sinh anh dũng ngay trên mâm pháo. Ðây là liệt sĩ đầu tiên của cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại.
Những tàu hải quân là mục tiêu "vây diệt" của máy bay địch. Tàu 187 của thuyền trưởng Lê Văn Tiếu bị sáu máy bay công kích.
Một chiếc máy bay địch liều lĩnh sà thấp xuống định phóng rốc-két vào tàu ta. Chấp nhận đối đầu, nhằm thẳng quân thù mà bắn, các pháo thủ tàu đã tiêu diệt được tên giặc trời ngày khi chưa kịp hành động, làm nó bốc cháy thành một bó đuốc lớn, xoay mấy vòng rồi rơi xuống biển, cách Hòn Mát hai km...
Tại Quảng Bình, ta bắn rơi tại chỗ một máy bay tại cửa biển Lý Hòa, bắn bị thương một chiếc khác.
Tại Thanh Hóa, khu cửa biển Lạch Trường, trận chiến diễn ra dữ dội, ta bắn rơi một máy bay, bắn bị thương hai chiếc khác.
Tại Quảng Ninh, khẩu đội 14 ly 5 do trung đội phó Trương Thanh Luyện chỉ huy đã bắn rơi tại chỗ chiếc máy bay AD4. Tên phi công hốt hoảng nhảy xuống biển. Hắn liền bị đồng chí Nguyễn Kim Bảo, dân quân đảo Cô Tô bơi thuyền ra bắt sống. Ðây là tên giặc lái Mỹ đầu tiên bị bắt sống. Hắn tên là An-va-rét (Everett Alvarez), trung úy hải quân, số lính 644124, sinh ngày 23-12-1937, tại Ca-li-pho-ni-a.
Chủ nghĩa Anh hùng cách mạng Việt Nam đã tỏa sáng trong trận đầu đối mặt với không quân Mỹ. Cùng với tấm gương Phan Ðăng Cát, chiến sĩ Nguyễn Văn Vinh (tàu 175 Hải quân) chưa đầy một tuổi quân, xông xáo tiếp đạn, cấp cứu thương binh, khi tàu bị trúng đạn, anh được phép rời tàu nhưng đã tự nguyện ở lại: "Tàu còn thì tôi còn, đề nghị thuyền trưởng cho tôi ở lại chiến đấu đến cùng".
Pháo thủ Ðặng Ðình Lống tàu 146 bị thương cả hai chân, tự băng bó, buộc thắt lưng vào giá súng tiếp tục chiến đấu...
Nhân dân xã Hưng Hòa, Hưng Dũng, thành phố Vinh không quản thân mình tiếp đạn, cứu kho xăng; nữ đoàn viên Tô Thị Ðạo nhiều lần tiếp máu cứu thương binh...
Kết thúc trận đánh, trong ngày, ta đã đánh lui 64 lượt chiếc tập kích, bắn hạ tám máy bay, bắt sống một phi công. Ðó là nguồn cổ vũ, động viên lớn toàn quân, toàn dân giành thắng lợi to lớn trong việc đánh bại hai cuộc chiến tranh phá hoại của không quân địch, kết thúc với chiến dịch Ðiện Biên Phủ trên không lịch sử, bắn hạ hơn 4.000 máy bay, kể cả những máy bay chiến lược hiện đại nhất, bắt sống hàng trăm phi công.
Phát huy truyền thống vẻ vang của cha anh, ngày nay quân đội ta, trong đó có lực lượng phòng không - không quân và hải quân, được trang bị hiện đại hơn nâng cao và phát huy bản lĩnh chính trị, sẵn sàng chiến đấu cao, bảo vệ vững chắc vùng trời, vùng biển của Tổ quốc.
NGUYỄN SĨ ĐẠI