Cây đại thụ còn lại trong "tứ trụ"
Tứ trụ của ngành y gồm GS Đặng Văn Chung - nội khoa; GS Tôn Thất Tùng - ngoại khoa; GS Đinh Văn Thắng - sản khoa và GS Chu Văn Tường - nhi khoa). |
Nhi khoa là một ngành khó trong Y học. Chữa trị cho trẻ nhỏ có đặc thù riêng mà không phải bao giờ các kiến thức y học dành cho người lớn cũng áp dụng được. Bệnh của trẻ nhiều, sức đề kháng yếu, bệnh dễ biến chứng nên rất dễ tử vong; chẩn đoán bệnh cũng khó vì trẻ chưa nói được, triệu chứng không điển hình... Có lẽ vì thế mà phong cách khám bệnh của GS. Chu Văn Tường luôn rất tỉ mỉ và cực kỳ cẩn thận. Ông nổi tiếng với khả năng chẩn đoán với độ chính xác cao nhất.
Một bà mẹ ở phố Hàng Bài, gần nhà GS. Chu Văn Tường vẫn xuýt xoa khi kể lại câu chuyện về hôm khám bệnh đặc biệt mà con bà là đối tượng ngẫu nhiên. Một lần đến chơi, trong khi trò chuyện, bà chợt than phiền với GS. Tường: "Con em làm sao mà ăn cứ rơi vãi lung tung như người nhà quê ấy". Ông hỏi thêm một số triệu chứng, chau mày nghĩ một lúc rồi nói một câu mà người mẹ tưởng như sét đánh bên tai: "Cháu nó bị u não đấy, bác đưa đi mổ ngay đi". Thời đó chưa có siêu âm, các phương tiện máy móc cũng rất ít nhưng khi bà mẹ vẫn theo lời GS Tường đưa con đi mổ, kết quả đúng là có u não.
Nhắc đến GS. Chu Văn Tường và khả năng thiên bẩm chẩn đoán bệnh, nhiều người nghĩ ngay đến một câu nổi tiếng ông hay lẩm nhẩm khi suy nghĩ về một ca bệnh khó: "Cái này có thể là cái gì đấy, chứ không phải cái gì đó"! Nhờ câu nói dích dắc đó, không ít bệnh nhân tưởng chết đã được... lôi về cõi sống. Thậm chí, có người đang được chuyển từ giường bệnh xuống khoa cơ thể học (để mổ xác) đã sống lại nhờ sự tận tình cấp cứu của GS. Chu Văn Tường.
Cách đây chưa lâu, một bệnh nhi bị viêm gan, thiếu máu, người gầy đét, đã được chẩn đoán ung thư gan. Ông thăm khám 5-6 lần, rồi "phán": "Không! Có thể chỉ bị tắc tĩnh mạch trên gan". Nghe thế, ánh mắt của người mẹ đứa trẻ chợt long lanh tia hy vọng vừa lóe lên sau bao ngày sống trong nỗi ám ảnh kinh hoàng. Mổ xong, một tuần sau, bố mẹ đứa trẻ đã được bế con về - không còn hạnh phúc nào hơn thế!
Nhiều thầy thuốc ở khoa Tiêu hóa, Bệnh viện Nhi Trung ương vẫn nhớ một đứa trẻ bị nhiễm trùng đường huyết rất sớm. Khi được đưa đến, bệnh đã nặng và đứa trẻ đã không qua khỏi. Tưởng mọi chuyện không có gì phải nói nữa, nhưng bằng kinh nghiệm lâm sàng, GS. Chu Văn Tường khẳng định: "Tôi nghĩ trường hợp này bị mắc bệnh lao bẩm sinh". Cử y tá xuống tận nhà bệnh nhân hỏi, kết quả đúng là gia đình đứa trẻ xấu số có tiền sử bệnh lao. Ngay lập tức bà mẹ được khuyên đến Bệnh viện Lao chữa trị. Một năm sau, bà đã có thể sinh con, điều mà nếu không được chữa trị thì chẳng những khó có thể xảy ra, mà tính mạng của người mẹ còn bị đe dọa. GS. Chu Văn Tường đã không ít lần tìm ra những nguy cơ mà ngay chính bệnh nhân cũng chưa hề nghĩ đến như thế.
Song cũng đã một lần, khi vừa từ nhà lên viện, ông bị một người phụ nữ lao đến, cấu xé, gào thét vì con bà vừa mất trong bệnh viện. Với một vị viện trưởng khác, có thể bà mẹ kia sẽ gặp phải một phản ứng mạnh, nhưng ông chỉ nhẹ nhàng khuyên nhủ: "Y học nhiều khi không làm được tất cả. Khả năng của con người chỉ có giới hạn mà thôi". Lúc đó ánh mắt ông rất buồn...
Có lẽ chẳng nỗi đau nào lớn hơn đối với một người mẹ khi phải chứng kiến đứa con mình đứt ruột đẻ ra còn đỏ hỏn cứ khóc, lịm dần rồi lạnh hẳn. Sự quạnh quẽ thay thế hình ảnh đứa trẻ ngộ nghĩnh sẽ khiến cả gia đình rơi vào tâm trạng nặng nề. Chuyện ấy đã từng xảy ra với gia đình chàng trai Chu Văn Tường hơn 60 năm về trước. Khi chuẩn bị học xong trường Bưởi, một lần về nhà ở Phú Xuyên, Hà Đông, Tường thấy mặt mẹ biến sắc và đứa em trai xanh xao, gầy xọp hẳn. Quê ông đồng chiêm trũng, mùa hè nước ngập mênh mông, vệ sinh lại kém nên trẻ rất hay bị tiêu chảy. Lần này đến lượt em trai ông thều thào trong trạng thái mất nước nặng. Đứa trẻ lại phải kiêng nhiều thứ theo quan niệm cũ nên chỉ biết nhìn anh mà khóc. Chỉ được hai hôm, em chết. Đứng bất lực chứng kiến ánh sáng cuộc sống của em cứ dần lụi tắt, rồi nghe tiếng mẹ khóc nấc lên, Tường chạy ào ra cửa nhằm che đi những giọt nước mắt nóng hổi cứ lăn dài trên má. Ánh mắt em trai và tiếng khóc người mẹ đã tác động mãnh liệt đến lựa chọn của Chu Văn Tường. Ngay từ lúc đó, vị giáo sư tương lai đã chọn ngành y để học đại học.
Sau khi về công tác tại Bệnh viện Bạch Mai, ông là người tích cực nhất trong việc đề xuất và lập ra chuyên khoa Nhi đầu tiên ở nước ta. Nghiên cứu lớn đầu tiên của ông là về bệnh tiêu chảy ở trẻ em. Nghiên cứu về rối loạn điện giải, rồi phác đồ điều trị, quan điểm chống lại tập tục bắt người bị tiêu chảy phải ăn kiêng của ông đã cứu được hàng vạn người.
Với các thế hệ học trò của ông, cuộc đời nghiên cứu của GS. Chu Văn Tường cứ diễn ra như một trình tự được định sẵn vì câu chuyện đau lòng của gia đình kia ông ít kể cho ai. Khi được nghe cái "tích" bí mật của vị giáo sư già tôi mới hiểu thêm tại sao ông lại say mê ngành Nhi đến vậy và tại sao cách ông đối xử với bệnh nhân lại bao dung và (có thể trong thời đại ngày nay) "lạ đời" đến vậy.
"Mỗi thầy thuốc tốt nhất nên một lần là bệnh nhân"
Đó là câu nói của GS. Chu Văn Tường mà học trò của ông, PGS.TS. Trần Thanh Liêm (Viện trưởng Bệnh viện Nhi trung ương hiện nay) luôn nhớ mãi trong lòng. Là người từng nhiều lần đạp xe đạp đón thầy vào viện cấp cứu cho các bệnh nhi nặng, hiểu tấm lòng của thầy, PGS. Liêm vẫn hay lấy câu nói đã có mấy chục năm tuổi của GS. Tường ra nói lại với các học trò mình. Đến nay, tại gia đình, với sáu người con làm trong ngành y, GS. Chu Văn Tường vẫn hay nhắc lại câu nói đó. Ông bảo có thế mới hiểu được nỗi đau, nhu cầu của bệnh nhân để thông cảm. Và quan trọng nhất, điều mà nhiều bác sĩ thời nay rất nên biết, đó là nếu một lần làm bệnh nhân, họ sẽ biết cảm giác khi phải nghe lời cáu gắt, hay thái độ khinh khỉnh của thầy thuốc khó chịu đến mức nào.
Có lẽ vì một thời rất khó khăn khi phải nuôi một lúc tám người con ăn học nên GS. Chu Văn Tường hiểu rất rõ nỗi khổ của người nghèo khi phải vào viện. Vì vậy, ông không bao giờ tha thứ cho những thầy thuốc cố tình kê thuốc đắt, không cần thiết để nhận hoa hồng hay chưa có nghi vấn đã bắt bệnh nhân đi làm một loạt xét nghiệm. Sáu người con làm trong ngành y của ông đến nay vẫn giữ được nếp nhà: tuyệt đối không bao giờ nhận tiền của bệnh nhân, cho dù họ đến tận nhà để "thưa gửi".
Tôi may mắn được dự một buổi họp mặt của các học trò GS. Chu Văn Tường. Nhiều người nay tóc đã bạc chẳng kém thầy, một số đã rất thành danh và thành đạt. Hành động họ nhắc đến nhiều nhất là cử chỉ... rút tiền ra cho bệnh nhân của GS. Chu Văn Tường. Trước những đứa trẻ quá nghèo, dù ốm, bố mẹ chúng cũng không thể mua được những món mà chúng nằng nặc khóc đòi, ông không cầm được lòng. Không ít lần, vị giáo sư khả kính đã về nhà nhanh nhảu với vợ: "Bà ơi, đưa cho tôi mấy cái bánh chưng" rồi đem vào cho mấy đứa trẻ gần tết vẫn phải nằm viện, mặt buồn xo. Hành động tự nhiên đó có lẽ sẽ là ấn tượng đẹp không thể nào quên đối với những người mẹ nghèo đang lo đến héo hắt chăm con, hay rất có thể là cả những đứa trẻ, dù chúng vẫn mếu máo khi có một ông cụ mặc áo blouse trắng tiến lại gần.
Rất dễ dãi với bệnh nhân nhưng với đồng nghiệp và cấp dưới, GS. Chu Văn Tường luôn đặt ra những yêu cầu rất nghiêm túc. Khi còn là Viện trưởng, ông vẫn thường xuyên "đi buồng". Là một người nổi tiếng điềm đạm và rất ít nói to nhưng có lần, khi thấy một trường hợp bị uốn ván nặng; hỏi y tá tình trạng cụ thể thế nào, định điều trị ra sao - không nắm được, ông đã rất giận dữ và cô y tá ngay lập tức được cho nghỉ một thời gian để kiểm điểm chuyên môn. Từ đó, các bác sĩ ở Viện nhi luôn nắm rất chắc tình hình bệnh nhân ở buồng mình đảm trách.
Khi GS. Chu Văn Tường đến thăm bệnh viện, hàng loạt học trò lớn của ông như GS. Trần Quỵ (Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai), PGS. Trần Thanh Liêm, rồi PGS. Nguyễn Công Khanh... lần lượt ra dìu thầy. Đặc biệt, khi thấy ông chậm rãi "nói lời từ biệt" vì cảm nhận sức khỏe của mình đã yếu rồi, toàn thể Ban giám đốc Bệnh viện Nhi Trung ương im phăng phắc xúc động. Đến nay, "tài sản" ông tích lũy được có lẽ mãi mãi là ước mơ của rất nhiều thế hệ thầy thuốc chân chính. Đó không phải là thứ có thể mua được, mà là những lời nể trọng cả về chuyên môn và đức độ của một người thầy, một bác sĩ đã góp phần cứu sống, giúp hàng vạn đứa trẻ mạnh mẽ, tự tin bước vào đời.
Trong thời gian lãnh đạo Bệnh viện Nhi Trung ương, GS. Chu Văn Tường đã hướng dẫn hàng trăm tiến sĩ, thạc sĩ, góp phần rất lớn trong việc phát triển ngành Nhi ở Việt Nam. Đến nay, ở tuổi 84, ông để lại một gia tài khá đồ sộ gồm hàng chục cuốn sách, công trình nghiên cứu. Rất nhiều trong số đó vẫn đáng là những "tài liệu gối đầu giường" của các bác sĩ Nhi khoa, như Bách khoa thư bệnh học, Chữa bệnh trẻ em, Cấp cứu Nhi khoa, Từ điển Nhi khoa Pháp - Anh - Việt ... Những nghiên cứu về ung thư, về tai nạn thương tích ở trẻ em đã được GS. Tường xúc tiến từ cách đây cả thập niên. Những định hướng đó luôn tỏ ra có tầm nhìn chiến lược và đã mang lại tác dụng ngay trên thực tế, góp phần giảm nhẹ những nguy cơ và tăng khả năng được cứu sống của hàng vạn bệnh nhi. |