Những vấn đề bức xúc về môi trường
Một cán bộ Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Nghệ An cho tôi xem danh sách các nhà máy, cơ sở sản xuất, kinh doanh trên địa bàn vi phạm gây ô nhiễm môi trường. Thôi thì đủ loại, nào các công ty sản xuất chế biến nông sản, thực phẩm, các đơn vị sản xuất vật liệu xây dựng, các cơ sở khai thác quặng, sản xuất giấy... Nhiều vấn đề bức xúc, đáng báo động về môi trường ở địa phương này nhưng điều dễ thấy trước hết là tình trạng ô nhiễm môi trường do hoạt động sản xuất công nghiệp.
Kết quả kiểm tra, thanh tra hằng năm của ngành tài nguyên và môi trường cho thấy: Hiện có 22 nhà máy, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trên địa bàn tỉnh gây ô nhiễm môi trường trầm trọng. Ðáng chú ý, các đơn vị sản xuất chế biến thực phẩm, đồ uống (bia, bánh kẹo, nước giải khát), điển hình như Công ty cổ phần bia Sài Gòn - Nghệ An, Công ty cổ phần công nghệ thực phẩm Hoàng Long, Công ty TNHH Việt Hùng, mà nguồn gây ô nhiễm chính là chất thải rắn và lỏng.
Trong đó, phần lớn các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm chưa có hệ thống xử lý chất thải lỏng, hoặc có nhưng chưa đạt tiêu chuẩn môi trường mà thải trực tiếp ra các ao hồ, sông suối. Một số nhà máy sản xuất giấy và vật liệu xây dựng (tấm lợp amiang, fibro xi-măng) trong quá trình hoạt động đã thải ra môi trường hóa chất thuộc danh mục chất thải nguy hại nhưng không được thu gom và xử lý theo quy định; riêng các cơ sở sản xuất giấy thường sử dụng một lượng hóa chất tẩy rửa khá lớn nhưng không có hệ thống xử lý nước thải đúng quy cách.
Một vấn đề bức xúc lâu nay ở Nghệ An là tình trạng khai thác khoáng sản tự do, bừa bãi, nhất là đào đãi thiếc ở huyện Quỳ Hợp. Dọc các sông suối, trong các hang động, mạnh ai nấy làm, chẳng ai quản lý, cho nên việc khai thác, tuyển rửa quặng thiếc đã làm biến đổi khả năng trữ nước trong lòng các sông, hồ (điển hình là khe Tống Huống, ở xã Châu Quang, trước đây cung cấp nước tưới cho khoảng 450-500 ha, nhưng giờ đây chỉ tưới được 250 ha).
Mặt khác, hoạt động chế biến khoáng sản (quặng thiếc, đá ốp lát mỹ nghệ) không chỉ làm ô nhiễm nguồn nước mặt, mà còn ngấm dần vào đất; qua kiểm tra, phân tích mẫu nước cho thấy các chỉ số hàm lượng xi-a-nua, thủy ngân, một số chất hữu cơ đều vượt quá mức cho phép nhiều lần.
Ô nhiễm môi trường nước và đất do tồn lưu hóa chất bảo vệ thực vật (DDT, 666...) từ những năm chiến tranh, cũng như quá trình sử dụng gần đây mà theo điều tra của Sở Tài nguyên và Môi trường và Chi cục Bảo vệ thực vật tỉnh, có đến 55 điểm kho bãi hóa chất BVTV trước đây và hàng chục nghìn m3 đất bị nhiễm, đang là vấn đề được dư luận quan tâm.
Theo thống kê, hằng năm, lượng rác thải sinh hoạt của tỉnh lên khoảng 350 nghìn tấn, nhưng mới chỉ thu gom và xử lý được một tỷ lệ nhỏ. Bãi rác Ðông Vinh với diện tích sáu ha, mỗi ngày tiếp nhận 200 tấn rác thải các loại, đã trở nên quá tải; do không được xây dựng và chôn lấp đúng quy trình, nước thải không được xử lý nên lâu nay trở thành điểm nóng về ô nhiễm môi trường...
Các giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường
Phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với bảo vệ môi trường giữ gìn sức khỏe cộng đồng. Xác định được điều đó, tỉnh Nghệ An mấy năm gần đây đã có những chủ trương, quyết sách trong hoạt động bảo vệ môi trường.
Cuối năm 2006, tại Quyết định số 4758/QÐ-UBND-ÐC (ngày 11-12-2006), UBND tỉnh đã phê duyệt Ðề án giải quyết các vấn đề môi trường bức xúc trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Mục tiêu của Ðề án là phấn đấu đến năm 2015, di dời toàn bộ những cơ sở sản xuất, kinh doanh gây ô nhiễm nghiêm trọng. Không có khả năng khắc phục tại chỗ vào vị trí các khu công nghiệp đã được quy hoạch. Ðồng thời, giải quyết những điểm "nóng" về ô nhiễm môi trường tại các khu vực đô thị, đông dân.
Ðể thực hiện các mục tiêu lớn và phức tạp đó, đòi hỏi phải có sự đồng thuận từ các cấp, các ngành đến các tầng lớp dân cư, hơn nữa có sự đầu tư các nguồn lực nhằm triển khai, thực hiện đồng bộ nội dung Ðề án đã nêu ra.
Theo ông Võ Văn Hồng, Trưởng Phòng quản lý môi trường (Sở Tài nguyên và Môi trường Nghệ An) cho biết: Một mặt, đẩy mạnh công tác truyền thông, giáo dục các quy định của Luật Bảo vệ môi trường nhằm nâng cao nhận thức của các tổ chức, cá nhân trong công tác bảo vệ môi trường; khuyến khích, động viên các tầng lớp nhân dân, chủ doanh nghiệp chủ động và tích cực tham gia vào việc phòng ngừa, xử lý ô nhiễm, mặt khác, không ngừng tăng cường công tác quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường, xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách phù hợp trong hoạt động bảo vệ môi trường.
Nghệ An đề ra các giải pháp cụ thể, chẳng hạn, những cơ sở sản xuất, kinh doanh nằm xen kẽ trong khu dân cư, gây ô nhiễm nghiêm trọng như Công ty cổ phần da Vinh (ở khối 3, phường Trung Ðô), nếu không có khả năng khắc phục, thì năm 2008 phải di dời đến địa điểm mới theo quy hoạch.
Các đơn vị, doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường song có khả năng khắc phục được thì không phải di chuyển, nhưng phải thực hiện xử lý ô nhiễm do cơ sở mình gây ra đạt tiêu chuẩn môi trường trong thời hạn yêu cầu của cơ quan quản lý Nhà nước. Nếu không làm nghiêm túc, sẽ có hình thức xử lý phù hợp theo quy định của pháp luật (kể cả đình chỉ hoạt động).
Ðối với khai thác và chế biến khoáng sản, các tổ chức và cá nhân tham gia phải chấp hành nghiêm túc các quy định về khai thác khoáng sản, xử lý chất thải. Tăng cường kiểm tra, thanh tra việc chấp hành Luật Bảo vệ môi trường... Lập dự án xử lý ô nhiễm hóa chất bảo vệ thực vật tại các khu vực có kho bãi trước đây, trước mắt có biện pháp cung cấp nước sạch cho nhân dân các xã Ðồng Thành (huyện Yên Thành), Nghĩa Trung (Nghĩa Ðàn), xóm Mậu 2, xã Kim Liên (Nam Ðàn), nơi bị quá tải và gây ô nhiễm nặng hóa chất bảo vệ thực vật.
Ðối với chất thải rắn sinh hoạt, có kế hoạch xử lý triệt để khối lượng rác đã quá tải và gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng khu vực bãi rác Ðông Vinh (TP Vinh), đồng thời triển khai nhanh dự án xây dựng bãi chôn lấp chất thải rắn hợp vệ sinh tại xã Nghi Yên, huyện Nghi Lộc.
Trong hai năm 2007 và 2008, tỉnh ưu tiên đầu tư xây dựng hệ thống xử lý chất thải lỏng tại Bệnh viện đa khoa Hữu nghị và Bệnh viện lao (cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng) theo Quyết định số 64/2003/QÐ-TTg. Nghệ An phấn đấu đến năm 2010, các bệnh viện huyện được trang bị lò đốt rác thải y tế (đầu tư khoảng 300 triệu đồng/lò), 100% số thị xã, thị trấn có cơ sở xử lý rác sinh hoạt theo đúng quy trình...