Gặp cô gái trong bài thơ "Việt Nam máu và hoa" của nhà thơ Tố Hữu

Trong bài thơ "Việt Nam máu và hoa" của nhà thơ Tố Hữu có câu: "Trắng khăn tang em chẳng khóc đâu/ Hỡi em gái mất cha, mất mẹ...". Cô gái được nhắc đến trong hai câu thơ trên là chị Phạm Thị Viễn, một trong những pháo thủ của Nhà máy cơ khí Mai Ðộng đã từng hạ gục chiếc máy bay F111- A cánh cụp cánh xòe vào đêm 22-12-1972.

Từ ký ức mất mát đau thương...

Ðã bước vào cái tuổi 57, nhưng gương mặt người nữ pháo thủ năm ấy vẫn giữ được nét tươi nhuần của thời xuân sắc. Tiếp chúng tôi trong căn nhà giản dị nằm sâu trong con hẻm ngoằn ngoèo của phố Tương Mai, chị bảo: Nơi này xưa kia chính là cánh đồng Tương Mai đấy. Chị đã cất nhà trên thửa ruộng 5% của gia đình, kề bên hố bom đã từng vùi xác cha chị trong cái đêm 26-12 kinh hoàng ấy.

Rưng rưng trong ký ức thời gian, chị đưa chúng tôi ngược về những năm tháng khó khăn và đau thương nhất trong cuộc đời chị. Sinh năm 1951 trong một gia đình đã nghèo lại khá đông con, năm 1966, chị phải khai tăng tuổi để vào học nghề tại Nhà máy cơ khí Mai Ðộng.

Là công nhân thợ nguội nhưng đất nước đang chiến tranh, phân xưởng của chị vừa sản xuất vừa phải tham gia chiến đấu. Năm 1967, giặc Mỹ điên cuồng leo thang bắn phá miền bắc. Trong một lần mang rau ra chợ bán, mẹ chị vì nhường hầm cho mấy cháu nhỏ mà bị trúng bom B52. Vệt bom giết chết người mẹ thân yêu của chị cũng chính là vệt bom đã làm chị bị thương khi đang cùng đồng đội sửa nhà giúp một anh cùng tổ. Chị được đưa vào bệnh viện cấp cứu nhưng đang lúc bom đạn ùng oàng, gia đình không sao tìm được chị.

Mãi đến hôm sau chị  mới nhận được tin mẹ mất. Mang cả vòng băng quấn to sụ trên cổ, chị vừa chạy vừa khóc, quá trưa mới về đến nhà. Trước mắt chị là cảnh đổ nát hoang tàn. Chị đã không kịp gặp mẹ và cũng không còn nước mắt để khóc mẹ, chỉ biết ôm chặt cậu em trai út lúc ấy mới bốn tuổi vào lòng. Không còn mẹ, căn nhà của gia đình chị sao mà trống vắng đến rợn người. Người anh lớn nhất của chị là bộ đội, lại đang chiến đấu ở xa. Chị tuy đã là "người nhà nước" nhưng cũng chỉ mới 17 tuổi đầu. Sau chị còn đến năm đứa em thơ dại. Vậy là vừa đi làm ở nhà máy, vừa trực chiến trên trận địa, chị còn phải thay mẹ phụ bố nuôi dạy các em. Cứ thế ròng rã mấy năm trời vất vả, cực nhọc. Thương con gái ngày nào cũng phải đi bộ đến Nhà máy làm việc, bố chị dự định bán xong mẻ cá dưới ao sẽ mua cho chị chiếc xe đạp, nhưng ông đã không kịp làm điều đó.

-         Bố chị không bao giờ còn thực hiện được dự định đó nữa.- Giọng chị bỗng lạc đi, chìm trong tiếng nấc. Ðôi vai gầy guộc khẽ rung lên. Phải một lát sau chị mới trấn tĩnh được.

Những ngày tháng cuối cùng của năm 1972, khi đế quốc Mỹ tráo trở đem bom B52 dội xuống thành phố Hà Nội và Hải Phòng, bố chị vội vàng đưa ba đứa em trai đi sơ tán. Lúc này chị đã là tự vệ của nhà máy nên phải trực chiến trên trận địa cả ngày lẫn đêm. Mỗi lần về nhà lấy gạo mang đi, ông thường dặn dò con rất kỹ. Từ việc ăn ở nơi tập thể khi xa gia đình đến việc qua lại trông nom nhà cửa mỗi lúc ông đi thăm các em. Ông còn tin cậy chỉ cho chị nơi ông cất tiền dành để mua xe. Thế mà...

... Suốt mấy ngày liền bom Mỹ dội tan hoang thành phố. Trận địa của chị cũng chưa một phút thảnh thơi. Các chị thay nhau trên mâm pháo. Ngủ cũng chỉ chợp mắt chớp nhoáng. Ngày 26-12-1972, Hà Nội ngập trong khói bom. Những chùm bom ác nghiệt đã gieo tai ương thảm khốc xuống các khu dân cư an lành như dẫy phố Khâm Thiên, Yên Viên, Gia Lâm, Uy Nỗ...

Ðêm ấy, cả thành phố thấp thỏm trong tiếng còi báo động chốc chốc lại rú lên kinh hoàng. Một loạt B52 bất ngờ dội xuống làng Tương Mai. Rạng sáng hôm sau, chị đang trực chiến trên trận địa thì hai cô em gái của chị hốt hoảng chạy lên mang theo một tin sét đánh: "Chị ơi, bố bị bom thả chết rồi!". Ba chị em ôm nhau nước mắt chan hòa. Chị đưa hai em về nhà, nhưng không sao tìm được thi thể bố. Căn hầm nơi ông thường ẩn nấp bây giờ là một hố bom sâu hoắm. Mãi ba ngày sau chị mới được tìm thấy bố nhưng chỉ còn một phần thân thể rách nát. Chị chỉ nhận ra bố qua vạt áo bông đẫm máu.

Ðến chiến công hạ gục chiếc máy bay F111-A...

Kể về chiến công đêm 22-12-1972, chị bảo đó là chiến công của cả tập thể. Ngày ấy các chị còn trẻ lắm, tất cả đều trên dưới 20 tuổi. Trung đội chị có 11 người được trang bị hai khẩu súng máy cao xạ. Trận địa được đặt ngay sau nhà máy có nhiệm vụ yểm trợ đơn vị pháo 100 mm nằm giữa cánh đồng Mai Ðộng.

Ðêm 21-12, không khí chiến đấu đánh trả lũ giặc trời vô cùng sôi sục. Khẩu đội chị được lệnh đi tiếp đạn cho đơn vị pháo 100 ly. Người chị tuy mảnh mai nhưng chẳng hiểu sao vẫn đủ sức nâng quả đạn nặng hơn 40kg lên vai mà chạy. Mãi gần 2 giờ sáng các chị mới quay lại trận địa. Bỗng có tiếng người hét to lẫn trong tiếng gầm rú của máy bay: Trận địa Lĩnh Nam trúng bom rồi, khu tập thể nhà máy sập rồi! Thế là chẳng kịp nghỉ ngơi, các chị lại lao đi cứu sập. Cấp cứu người bị thương, chôn cất người chết xong thì trời cũng tang tảng sáng. Lúc này khẩu đội nhận được lệnh di chuyển pháo về trận địa Vân Ðồn.

Tại đây đã có hai khẩu pháo của Nhà máy cơ khí Lương Yên, một khẩu của Nhà máy Gỗ, thêm hai khẩu của Nhà máy cơ khí Mai Ðộng là năm khẩu. Chỉ huy liên đội tự vệ này là trung úy Hoàng Minh Giám, một sĩ quan trẻ vừa được Quân khu Thủ đô điều ra hỗ trợ. Anh Giám đã từng chỉ huy rất nhiều trận đánh nên các chị tin lắm. Làm xong công tác chuẩn bị như cân chỉnh pháo, cắm cọc phương vị xong thì trời đã sâm sẩm tối. Ðã được trên thông báo rất có thể đêm nay địch sẽ đánh vào thành phố nên cả trận địa đã chuẩn bị sẵn sàng. 21 giờ 30 phút đêm 22-12, còi báo động rú lên, toàn thành phố tắt điện. Máy bay địch xuất hiện. Chúng bay thấp, dọc sông Hồng, như mọc ra từ những cụm khói. Hà Nội dày đặc lưới lửa. Tiếng người chỉ huy dõng dạc vang lên: "Tất cả nòng súng quay về hướng 14. Sẵn sàng!" Mọi thông số đã chuẩn bị xong, chỉ còn chờ máy bay đến đúng tầm ngắm.

Khi nghe dứt hiệu lệnh: "Một điểm xạ ngắn, bắn!". Năm khẩu pháo đồng loạt đạp cò. Ở vị trí pháo thủ số 1, chị nhìn thấy rất rõ chiếc máy bay bay rẹt qua đầu, phần đuôi của nó lóe sáng... 30 phút sau có một chiếc xe quân sự của quận Hai Bà Trưng chạy vào thông báo với cả trận địa một tin vui: Chính họ vừa hạ gục chiếc máy bay F111-A "cánh cụp cánh xoè". Cả khẩu đội ôm nhau hò reo vui mừng khôn xiết.

Và mối duyên thơ với nhà thơ Tố Hữu

Thật tình cờ, vẫn trong chiến dịch 12 ngày đêm máu lửa ấy, một lần nhà thơ Tố Hữu đến thăm trận địa của chị khi chị và khẩu đội đang trực chiến trên mâm pháo. Vành khăn tang trắng trên mái đầu xanh của cô pháo thủ trẻ măng đã khiến nhà thơ hết sức xúc động. Ông ân cần thăm hỏi động viên cả khẩu đội rồi nói chuyện với chị hồi lâu. Sau đó ít lâu, một người bạn của chị đã mang tặng chị bài thơ "Việt Nam máu và hoa" của nhà thơ Tố Hữu. Bài thơ ấy có bốn câu mà chị nhớ mãi:

"...Trắng khăn tang em chẳng khóc đâu
Hỡi em gái mất cha mất mẹ
Nước mắt em làm nhòa mặt quân thù
Em phải bắn trúng đầu giặc Mỹ..."

Sau chiến dịch "Ðiện Biên Phủ trên không", pháo được kéo về trận địa cũ. Chị lại cùng trung đội tự vệ vừa sản xuất, vừa trực chiến. Năm 1979, Nhà máy được trang bị thêm một đại đội pháo 37mm, với cương vị đại đội phó chị gắn bó với trận địa mãi đến năm 1989 mới trở lại nhà máy làm việc. Năm 1991, do hoàn cảnh gia đình hết sức khó khăn, chị xin về hưu với mức lương khiêm tốn. Vất vả bươn chải đủ nghề, chị cũng đã nuôi dạy các em khôn lớn trưởng thành. Hai con chị, một cháu đã là bộ đội, cháu còn lại cũng có công ăn việc làm ổn định.

Cô pháo thủ Phạm Thị Viễn của 35 năm về trước bây giờ đang là người cán bộ phường năng động, xông xáo. Vừa là tổ trưởng đảng, tổ phó tổ dân phố 49- khu dân cư 10 (phường Tương Mai), chị còn là người cán bộ phụ nữ gương mẫu, nhiệt tình và  có uy tín đối với bà con khu phố.

Có thể bạn quan tâm