Ghép mô, bộ phận cơ thể người được bắt đầu thực hiện vào đầu thế kỷ 20 và ngày càng trở nên phổ biến tại nhiều quốc gia, ghi nhận là một trong mười phát minh về khoa học làm thay đổi cuộc sống của nhân loại trong thế kỷ. Hiện nay, mỗi năm trên thế giới có hàng nghìn người được ghép mô, tạng và nhu cầu được ghép mô, tạng tại hầu hết các nước đều tăng theo thời gian.
Ghép giác mạc là phẫu thuật ghép mô được tiến hành sớm nhất trong các phẫu thuật ghép, kỹ thuật ghép đang ngày càng được hoàn thiện và nâng cao với tỷ lệ thành công đạt hơn 95%. Kỹ thuật này ngày càng phát triển tại nhiều nước trên thế giới và trở thành một biện pháp của ngành y học nhằm cứu sống người bệnh khi không còn khả năng cứu chữa.
Tuy nhiên, số người bệnh chờ được ghép mô, bộ phận cơ thể người ngày càng cao, vượt quá khả năng đáp ứng của ngành y học do không có nguồn cung cấp mô, bộ phận cơ thể người. Thiếu nguồn cung cấp mô, bộ phận cơ thể người là vấn đề khó khăn nhất luôn đặt ra đối với kỹ thuật ghép mô, bộ phận cơ thể người tại mọi quốc gia. Theo ước tính, cứ khoảng 14 phút trôi qua trên thế giới lại có một người có nhu cầu ghép mô, bộ phận cơ thể để duy trì sự sống, nhưng số người bệnh được ghép lại rất ít.
Nguồn cung cấp mô, bộ phận cơ thể người từ trước đến nay được lấy từ hai nguồn chính: từ tử thi hoặc chết não và nguồn cho sống. Phần lớn các quốc gia cho phép lấy mô, bộ phận cơ thể người để ghép từ nguồn tử thi hoặc chết não.
Ghép mô, bộ phận cơ thể người lấy từ nguồn cho sống cũng được thực hiện ở nhiều quốc gia. Mặc dù có nhiều ưu điểm, song các ca ghép lấy từ nguồn cho sống cần bảo đảm an toàn về các sự cố xảy ra sau mổ cho cả người cho và người nhận.
Mặt khác do quan niệm và nhận thức của con người cho nên nguồn cung cấp mô, bộ phận cơ thể từ người đang sống khỏe mạnh mới chỉ được thực hiện tại một số nước châu Á. Thiếu nghiêm trọng nguồn cung cấp mô, bộ phận cơ thể người đã tạo nên thị trường chợ đen mua bán mô, bộ phận cơ thể người ở nhiều nước trên thế giới.
Cùng với kỹ thuật ghép mô, bộ phận cơ thể người, hầu hết các nước trên thế giới đều đặc biệt quan tâm khía cạnh pháp lý của vấn đề này. Mỗi quốc gia đều ban hành một số quy định nhất định trên cơ sở quan điểm cụ thể của vùng, lãnh thổ tạo cơ sở pháp lý ban đầu để thúc đẩy kỹ thuật ghép mô, bộ phận cơ thể phát triển với mục đích chữa bệnh và nghiên cứu khoa học.
Tại Việt Nam, từ sau kháng chiến chống thực dân Pháp, kỹ thuật ghép mô, bộ phận cơ thể người đã bắt đầu manh nha xuất hiện tại một số bệnh viện: Việt-Ðức, Viện 108, Học viện Quân y, Việt - Tiệp đã triển khai ghép da mảng tự do, ghép xương, sụn và các vạt da phức tạp. Những năm 70 của thế kỷ trước, chúng ta cũng mới chỉ thực hiện được một số nghiên cứu làm tiền đề cho việc ghép mô, bộ phận cơ thể sau này. Việt Nam đã cử cán bộ đi đào tạo, xây dựng dự án định hướng thực hiện ghép thận, gan thực nghiệm, triển khai các cơ sở lọc máu nhân tạo và kỹ thuật cắt gan do giáo sư Tôn Thất Tùng thực hiện. Ðến năm 1990, các nhà khoa học Việt Nam quyết tâm thực hiện ca ghép thận đầu tiên tại Viện Quân y 103 với sự giúp đỡ của các chuyên gia Cu-ba.
Ðến nay, cả nước có mười cơ sở thực hiện được kỹ thuật ghép bộ phận cơ thể: Học viện Quân y, Viện 108, các Bệnh viện Việt - Ðức, T.Ư Huế, Nhi T.Ư, Nhi đồng 1, Chợ Rẫy, Nhân dân Gia Ðịnh, Ða khoa Ðà Nẵng... thực hiện được 157 ca ghép thận. Việt Nam cũng tiến hành ca ghép gan đầu tiên vào ngày 31-1-2004 và đến nay đã thực hiện được ba ca ghép gan tại Học viện Quân y 103, Bệnh viện Nhi T.Ư, Bệnh viện Nhi đồng 1.
Hiện nay, Việt Nam có khoảng 1.500 người không còn khả năng cứu sống vì không có bộ phận thay thế. Theo thống kê của Bộ Y tế, cả nước có khoảng chín nghìn người suy thận mãn cần được ghép thận, bên cạnh đó cũng còn một số lớn người được chỉ định ghép gan, nhưng không có nguồn thận, gan để ghép dẫn đến việc một số người phải ra nước ngoài để ghép. Trong nước mới có 157 ca ghép thận nhưng đã có hơn 300 người ra nước ngoài để ghép (chủ yếu là sang Trung Quốc). Trong khi chi phí một ca ghép thận ở nước ngoài rất cao so với trong nước (chi phí một ca ghép thận ở Trung Quốc là 30 nghìn USD, ở Việt Nam là 3.500 USD; chi phí một ca ghép thận chỉ bằng 40-50% chi phí cho một ca ghép gan).
Chủ động tạo nguồn cung cấp mô, bộ phận cơ thể từ trong nước là nhiệm vụ cấp bách hiện nay đối với ngành ghép mô, bộ phận cơ thể người. Ðể thực hiện mục tiêu này trước hết chúng ta phải tạo khung pháp lý an toàn bảo đảm cho ngành ghép mô, bộ phận cơ thể người phát triển, trên cơ sở đó, nâng cao nhận thức của người dân trong cộng đồng nhằm thay đổi những quan niệm, nhìn nhận vấn đề hiến tặng mô, bộ phận cơ thể khi sống và sau khi chết như một nghĩa cử cao đẹp phù hợp tín ngưỡng tôn giáo người Việt Nam.
Tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XI, đang diễn ra, dự án Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người đã được đem ra thảo luận. Còn mới đây, Viện chiến lược và chính sách y tế (Bộ Y tế) phối hợp Viện xã hội học và tâm lý lãnh đạo (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh) đã tiến hành nghiên cứu về "Nhận thức, thái độ và sự chấp nhận của cộng đồng đối với việc hiến tặng mô, tạng đặc biệt là giác mạc". Ðề tài nghiên cứu được thực hiện tại Hà Nội, Ðà Nẵng và TP Hồ Chí Minh.
Kết quả cho thấy, phần đông dân cư hiện đã biết về việc ghép mô, tạng, giác mạc, nhưng sự hiểu biết đó còn phiến diện, thiếu chi tiết và không chính xác, mới dừng lại ở những ca ghép cụ thể. Những người được hỏi đều gần như chưa biết các kỹ thuật này được tiến hành như thế nào: lấy nguồn ở đâu, lấy ra sao, thực hiện cấy ghép được tiến hành như thế nào, những ảnh hưởng đối với người cho, người nhận cũng như những thủ tục cho, nhận... Việc đăng ký hiến tặng mô, bộ phận cơ thể người sau khi chết là việc làm mới mẻ, xa lạ đối với cộng đồng dân cư. Hầu hết người dân chưa biết thủ tục đăng ký hiến mô, tạng, giác mạc... Phần lớn người dân khi được hỏi đều ghi nhận mục đích lớn của việc hiến mô, bộ phận cơ thể người để chữa bệnh, cứu người và đồng ý với chủ trương vận động xã hội hiến tặng mô, bộ phận cơ thể người, nó phù hợp đạo lý, quan niệm truyền thống và tinh thần hy sinh vì người khác.
Tuy vậy, việc đồng ý cho người thân đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể người vẫn còn thấp, và tỷ lệ người chấp nhận hiến mô, bộ phận cơ thể bản thân khi đang sống cho người thân cũng như khi đã chết còn thấp hơn nữa.
Ðể từng bước phát triển kỹ thuật ghép mô, bộ phận cơ thể người nhằm đáp ứng nhu cầu chữa bệnh ngày càng tăng ở nước ta, nhóm nghiên cứu đã đưa ra một số khuyến nghị. Trước tiên phải nhanh chóng hoàn thiện ban hành Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người nhằm tạo hành lang pháp lý cho sự phát triển kỹ thuật này. Tăng cường tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân nhằm tạo sự chuyển đổi về quan niệm, nhận thức, thái độ đối với việc hiến mô, bộ phận cơ thể người.
| Theo thống kê của Bộ Y tế, cả nước ta có khoảng 9.000 người suy thận mạn tính cần được ghép thận. Riêng Hà Nội có 1.500 trường hợp được chỉ định ghép gan (chiếm 35% số người mắc bệnh về gan, mật) nhưng không có nguồn gan để ghép. Trong khi đó, quy hoạch phát triển ngành ghép tạng Việt Nam đến năm 2020 đặt chỉ tiêu thực hiện 1.000 ca ghép thận/năm, từ 80 đến 100 ca ghép gan/năm, từ 20 đến 30 ca ghép tim/năm và từ 10 đến 15 ca ghép phổi/năm. Ðể thực hiện mục tiêu này, cần phải tạo ra một hành lang pháp lý cho ngành ghép tạng Việt Nam. Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân quy định: "Thầy thuốc chỉ tiến hành lấy mô hoặc bộ phận cơ thể người sống hay người chết dùng vào mục đích y tế sau khi đã được sự đồng ý của người cho, của thân nhân người chết hoặc người chết có di chúc để lại. Việc ghép mô hoặc một bộ phận cho cơ thể người bệnh phải được sự đồng ý của người bệnh hoặc thân nhân hay giám hộ của người bệnh chưa thành niên. Bộ Y tế quy định chế độ chăm sóc sức khỏe người cho mô hoặc một bộ phận của cơ thể". Tuy nhiên, những vấn đề cụ thể và những quan hệ xã hội phát sinh chung quanh việc ghép tạng, hiến tạng, hiến xác, chết não vẫn chưa được điều chỉnh của pháp luật. Ðiều này đã và đang gây cản trở không nhỏ đến tiến trình phát triển ngành ghép tạng và cứu sống người bệnh ở Việt Nam. Viện Chiến lược và chính sách y tế |