Để mãi vang vọng điệu cồng chiêng Tây Nguyên

Đã 10 năm trôi qua kể từ khi “Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên” của Việt Nam được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và Di sản Văn hóa phi vật thể của nhân loại vào năm 2005. Ở đây, giá trị tiêu biểu và độc đáo của cồng chiêng Tây Nguyên không chỉ ở “bản chất âm nhạc”, mà còn ở cả “không gian văn hóa”. Được vinh danh xứng đáng, nhưng cùng với đó là nỗi lo về bảo tồn và phát huy các giá trị đó trong sự biến động của cộng đồng dân cư Tây Nguyên và sự thay đổi không nhỏ của các thiết chế văn hóa.

Các em thiếu niên buôn Kon H’ring, xã Ea H’Đing, huyện Cư M’gar, tỉnh Đác Lắc biểu diễn một bài nhạc chiêng truyền thống. Ảnh: LÊ HƯƠNG
Các em thiếu niên buôn Kon H’ring, xã Ea H’Đing, huyện Cư M’gar, tỉnh Đác Lắc biểu diễn một bài nhạc chiêng truyền thống. Ảnh: LÊ HƯƠNG

Nỗi lo mai một

Chẳng biết từ bao giờ, nói đến văn hóa Tây Nguyên là nhiều người mường tượng ngay đến hình ảnh những đêm hội tưng bừng quanh ánh lửa bập bùng bên nhà rông, nhà dài sừng sững, những sắc mầu thổ cẩm, những ché rượu cần nghiêng nghiêng và tiếng cồng chiêng rộn rã, trầm hùng, vang vọng khắp núi rừng. Cồng chiêng là nhạc cụ bằng hợp kim đồng, có khi pha vàng, bạc hoặc đồng đen. Cồng có núm, chiêng không núm. Cồng, chiêng có nhiều kích cỡ khác nhau, có thể được dùng đơn lẻ hoặc dùng theo dàn, bộ từ hai chiếc đến 12 chiếc hoặc 13 chiếc, thậm chí có nơi từ 18 chiếc đến 20 chiếc. Các bài cồng chiêng mang các sắc thái biểu cảm âm nhạc rất đa dạng, phù hợp với trạng thái tình cảm của con người trong những nghi lễ, sinh hoạt khác nhau: chiêng tang lễ hay bỏ mả thì chậm rãi, sâu lắng; chiêng mừng lúa mới thì thánh thót, vui tươi; chiêng đâm trâu thì nhịp điệu dồn dập, giục giã. Không những vậy, từ bao đời nay, cồng chiêng còn gắn bó mật thiết với đời sống tâm linh, với nhiều tín ngưỡng, phong tục tập quán của đồng bào các dân tộc thiểu số, như: Ba Na, Ê Đê, Gia Rai, M’nông, Cơ Ho, Xê Đăng…

Là nét văn hóa mang đậm dấu ấn không gian và thời gian, song cũng như nhiều loại hình diễn xướng dân gian khác, cồng chiêng Tây Nguyên cứ thưa vắng dần. Có thời kỳ do nghèo khó và thiếu hiểu biết mà người dân ồ ạt đem cồng, chiêng trong nhà bán đi, khiến số lượng các dàn cồng chiêng suy giảm nhanh chóng. Theo thống kê của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VH, TT và DL) tỉnh Gia Lai, trước thập niên 80 của thế kỷ trước, toàn tỉnh có hàng chục nghìn bộ cồng chiêng, đến năm 1999 còn hơn 5.000 bộ, và năm 2002 còn khoảng 3.000 bộ. Tương tự, các tỉnh Lâm Đồng, Đác Lắc hiện chỉ còn khoảng 2.000 bộ. Sự phát triển của xã hội và phương thức sản xuất, cũng như sợi dây gắn kết buôn làng trở nên lỏng lẻo, hay việc một số đồng bào theo tín ngưỡng mới, không còn sử dụng cồng chiêng đang khiến cho văn hóa cồng chiêng dần biến đổi. Lý giải về điều này, Phó phòng Nghiệp vụ Văn hóa, Sở VH, TT và DL Đác Lắc Y Kô Niê cho biết: “Cồng, chiêng muốn vang trong cộng đồng bây giờ không dễ dàng và tự nhiên như trước. Có nhiều nguyên nhân khiến chính chủ thể thực hiện cũng dần dần tan rã. Đó là việc mất đi “không gian” của rừng, đất trời, cây cối, buôn làng. Hay việc sống xen cư với nhiều dân tộc anh em khác, khiến nhiều tập quán, thói quen cũng thay đổi. Thêm vào đó, đời sống phát triển khiến người ta có thêm nhiều mối quan tâm ngoài sinh hoạt văn hóa cộng đồng, chẳng hạn các hoạt động giải trí hiện đại như xem phim, nghe nhạc…”.

Ở Kon Tum, ông A Jar, một người Xê Đăng say mê nghiên cứu văn hóa Tây Nguyên và có công dịch nhiều bộ sử thi sang tiếng quốc ngữ, cũng bày tỏ niềm trăn trở, tiếc nuối: “Ngày trước mỗi nhà ít nhất cũng một bộ chiêng, nhà nào giàu có thì vài bộ. Dần dần họ bán đi hết rồi. Bây giờ chỉ thấy cồng chiêng khi có các lễ hội do Nhà nước, chính quyền tổ chức, hoặc khi làm tang lễ cho người chết thôi…”. Nguy cơ mai một cồng chiêng còn thể hiện ở chỗ các bài chiêng cổ, truyền thống bị lãng quên, biến mất. Người M’nông trước đây có hơn 40 bài nhạc chiêng, nay các nghệ nhân chỉ còn nhớ, lưu truyền và trình diễn được 10 bài. Mặt khác, những nghệ nhân có năng khiếu và kinh nghiệm chỉnh chiêng cũng hiếm hoi dần trong các cộng đồng. Nghệ nhân chỉnh chiêng A Wer, ở buôn Kon Rơ Bàng, xã Vinh Quang, TP Kon Tum, tỉnh Kon Tum, năm nay tuổi đã ngoài bát tuần, giờ là người chỉnh chiêng duy nhất còn lại của cả vùng. Ông lão tự hào chỉ lên những giấy chứng nhận, bằng khen treo trong nhà, nhưng ngay sau đó cũng không giấu nỗi ưu tư: “Cái tai tôi bây giờ kém rồi, cái tay run, cái chân không đi lại được nữa, cũng muốn truyền lại kinh nghiệm chỉnh chiêng để các cháu biết giữ cái hồn, cái nhịp của chiêng. Thanh niên bây giờ cũng có người đánh được chiêng, nhưng không muốn học, chịu học chỉnh chiêng nữa”.

Hệ quả là ở nhiều vùng, không gian văn hóa cồng chiêng chỉ còn được biểu diễn như văn nghệ quần chúng, thường nhằm phục vụ du lịch, với ba, bốn bài lặp đi lặp lại, thiếu tính đa dạng, linh hoạt và hấp dẫn. Nếu không có giải pháp phù hợp và kịp thời, chúng ta sẽ phải chứng kiến những lớp người cũ lần lượt ra đi, mang theo kho tàng di sản văn hóa cồng chiêng mà không dễ dàng tạo dựng và khôi phục được.

Để di sản sống giữa cộng đồng

Về thôn Plei Đôn, phường Quang Trung, TP Kon Tum (tỉnh Kon Tum), chúng tôi ngỏ ý muốn xem một bộ chiêng của người Ba Na còn lưu giữ tại đây. Bất ngờ và hơn cả mong đợi, A Nung, già làng uy tín và cũng là một nghệ nhân đánh chiêng có tiếng, liền mời chúng tôi tham gia một buổi tập luyện của đội cồng chiêng thôn Plei Đôn. Già A Nung bảo: “Hôm nay không phải ngày có lịch tập đánh chiêng. Một tuần tập hai buổi thôi. Nhưng có người muốn xem, muốn nghe thì tôi và các anh em rất sẵn sàng”. Không chần chừ, già làng đưa chúng tôi ra sân nhà văn hóa, rồi chỉ mười lăm phút sau đã quay lại cùng hơn chục người đàn ông Ba Na thuộc nhiều thế hệ, có người tóc đã bạc phơ, cũng có mấy cậu thanh niên trẻ trung tầm mười tám, đôi mươi. Bộ chiêng chung của đội gồm 11 chiếc, chưa đầy đủ, nhưng vẫn bảo đảm chất lượng âm thanh. Họ vừa tập, vừa “biểu diễn” cho chúng tôi hai bài chiêng: lễ tang, lễ hội, để thấy sự khác biệt. Thật kỳ diệu, tiếng cồng, tiếng chiêng dù chỉ là của những người mới học, nhưng khi vang lên giữa không gian rừng núi bao la, không xa là dòng Đăk Bla cuộn chảy, đã trở nên ngân rền, sống động, lúc trầm hùng, lúc rộn rã, đi vào lòng người. Lớp học đánh chiêng này đã được duy trì vài năm trở lại đây và là niềm tự hào của bà con trong thôn, ngoài phục vụ các hoạt động giao lưu văn hóa văn nghệ trong xã, các thành viên còn tham gia biểu diễn trong các liên hoan, các sự kiện của huyện, tỉnh.

Còn ở Đác Lắc, riêng địa bàn TP Buôn Ma Thuột xây dựng được 35 đội cồng chiêng thôn làng, dần hồi sinh hoạt động văn hóa đặc sắc này. Các lớp học của Y Gõ Niê (buôn Kram), Y Hiu Niê (buôn M’Druk)… thu hút đông đảo các em thiếu niên, học sinh đến tập đánh chiêng và một số loại nhạc cụ dân tộc khác. Về phía chính quyền, HĐND tỉnh đã thông qua nghị quyết về bảo tồn không gian văn hóa cồng chiêng giai đoạn 2012-2015, với kinh phí 48 tỷ đồng dành cho điều tra, khảo sát, tuyên truyền, hỗ trợ và đầu tư cho một số buôn làng mua cồng chiêng, phục dựng lễ hội, tổ chức lớp dạy cồng chiêng cho thanh thiếu niên… Trong năm 2014, đã có hai lớp chỉnh chiêng được tổ chức, với sự tham gia của 50 nghệ nhân tiêu biểu của tỉnh.

Nghệ nhân chỉnh chiêng A Wer ở buôn Kon Rơ Bàng, xã Vinh Quang, TP Kon Tum, tỉnh Kon Tum.

Đối với các nghệ nhân đánh chiêng, chỉnh chiêng, những người nắm giữ tinh hoa văn hóa của dân tộc mình, họ đều chung suy nghĩ: Truyền lại cho thế hệ kế cận không chỉ với mục đích bảo tồn, mà còn để hướng các em về cội nguồn, cảm nhận những giá trị nhân văn, vui, buồn, hạnh phúc mà ông bà để lại; không giữ được hồn chiêng là có tội với tổ tiên, với buôn làng. Việc sân khấu hóa cồng chiêng, để phổ cập, quảng bá, để giao lưu với nước ngoài, để phục vụ thu hút du lịch là điều chấp nhận được, bởi nó cũng phần nào giúp mang đến cơ hội nâng cao thu nhập cho bản thân và gia đình... Ông Y Thim ở buôn Bông, xã Cư Êbur, TP Buôn Ma Thuột trung bình mỗi tháng đón năm, bảy đoàn khách đến nhà thưởng thức âm nhạc dân gian Tây Nguyên. Đó cũng là lúc các học trò của ông diễn tấu cồng, chiêng cho du khách, mặc dù thù lao không nhiều nhưng cũng là nguồn động viên các em trở lại với loại hình truyền thống không còn phổ biến này.

Trong những năm gần đây, hàng loạt những hoạt động văn hóa, nghệ thuật có quy mô lớn mang tầm quốc gia và khu vực đã được tổ chức, nhằm tôn vinh văn hóa cồng chiêng như: Liên hoan văn hóa Cồng chiêng quốc tế, Liên hoan văn hóa Cồng chiêng khu vực Tây Nguyên - miền trung, Liên hoan văn hóa Cồng chiêng cấp tỉnh trong khu vực... Ngoài ra là rất nhiều liên hoan cồng chiêng, ngày hội văn hóa dân gian quy mô cấp huyện, cấp xã, cụm xã. Để bảo tồn di sản, đặc biệt là di sản phi vật thể, công tác văn hóa từ cấp cơ sở có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nếu khơi dậy được vốn hiểu biết, lòng tự hào của đồng bào các dân tộc thiểu số tại chỗ, khiến họ thêm hiểu, thêm yêu những gì mình có và tận tâm kế thừa, phát huy, lan tỏa những giá trị tốt đẹp.

Tuy đã có những tín hiệu đáng mừng, song việc khai thác, phục hồi các lễ hội truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số gắn với môi trường diễn xướng văn hóa cồng chiêng, sưu tầm, triển lãm hiện vật, tranh ảnh, sách báo, băng đĩa về di sản văn hóa cồng chiêng còn hạn chế. Các chính sách tạo điều kiện, hỗ trợ vật chất, tinh thần cho các nghệ nhân cũng chưa được hoàn thiện, đồng bộ. Để tiếng cồng, nhịp chiêng tiếp tục ngân vang, bay xa, cần có sự quan tâm, phối hợp chặt chẽ hơn nữa của ngành văn hóa và các địa phương. Bên cạnh việc làm tốt công tác điều tra, thống kê số lượng cồng chiêng trên địa bàn, còn phải tiến hành phân loại cụ thể về chủng loại, đặc điểm các bộ cồng chiêng của từng dân tộc thiểu số để xây dựng kế hoạch phát huy giá trị trong đời sống văn hóa của đồng bào. Việc tuyên truyền dựa vào cộng đồng, nhất là các già làng, các nghệ nhân, cũng cần được phát huy. Mong không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên sống mãi không phải chỉ trong sách vở, trong những bộ hồ sơ di sản, mà ở chính bàn tay con người, giữa cộng đồng buôn làng, giữa đại ngàn Tây Nguyên hùng vĩ.

Có thể bạn quan tâm