Dấu ấn lịch sử trên đồng tiền Việt Nam

Từ trên xuống: Tiền Độc lư;
tiền Ngân hàng Đông Dương
và tiền Nhật Bản.
Từ trên xuống: Tiền Độc lư; tiền Ngân hàng Đông Dương và tiền Nhật Bản.


Trong số những loại tiền trưng bày,  có 120 loại tiền kim loại của các triều đại vua chúa Việt Nam đúc bằng đồng, chì, kẽm, sắt hình tròn và mỗi đồng có khoét một lỗ hình vuông ở giữa.

Hình dáng đồng tiền xưa gợi nhớ biểu tượng "trời tròn" bọc ngoài và "đất vuông" ở trong. Hơn nữa, lợi ích thực tiễn của cái lỗ hổng vuông vức giữa đồng tiền là rất tiện cho việc luồn dây xâu hàng trăm, thậm chí hàng nghìn đồng như thế thành một chuỗi. Hoặc khoanh từng khoanh cất vào rương, tủ. Hoặc quấn quanh bụng để khi đi xa mua bán lên bến xuống thuyền dễ dàng.

Riêng loại bằng vàng, bằng bạc (quý kim) đúc thành đỉnh (một lượng), thành nén, hoặc thoi (10 - 20 lượng), thành khối (20 lượng trở lên) nặng ngót trăm ký không chừng (vàng khối) dùng làm của để dành. Lắm khi loại kim ngân này được "chặt nhỏ" để chi trả hoặc làm đồ trang sức. Đồng Mễ Tây Cơ du nhập vào Việt Nam theo chân lính Tây Ban Nha trong đội liên quân Pháp cũng vậy. Một đồng Mễ ăn năm quan tiền ta vào năm 1863.

Thời trước, theo các nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu và Nguyễn Văn Cường, lương chính của lính tráng mỗi tháng (ngoài 28 - 30 ký gạo) chỉ lĩnh... một quan. Một quan ấy mua được nhiều thứ, dùng tiêu linh tinh khoảng 30 ngày. Xem thế đồng Mễ có giá (gấp năm quan) và nặng nề so với các đồng khác. 

 
Chuỗi xâu tiền kim loại xưa (giữa).

Lúc không có đơn vị nhỏ thanh toán, người ta chẳng ngại gì mà không chặt đồng Mễ (vốn chứa 0,72 lạng bạc) ra nhiều miếng, gọi là "góc tư, góc tám". Nó khá thông dụng tại các thương cảng và nơi đô hội ở nước ta thời Pháp mới qua với tên gọi nôm na là Bạc phiên hoặc tiền con Ó, vì trên mặt có in hình con Ó.

Riết rồi, theo nhà văn Sơn Nam, con Ó được Việt Nam hóa thành con Cò quen thuộc và đi vào câu ca: Anh ham chi đồng bạc con Cò. Bỏ cha bỏ mẹ theo phò Lang - sa. Tương tự bạc Mễ Tây Cơ, có 324 thứ tiền nước ngoài tại phòng trưng bày Tiền Việt Nam và các nước cho thấy thêm bằng chứng về giao lưu thương mại của nước ta với thế giới nhiều thế kỷ trước.  

Đến nay đồng tiền kim loại xưa nhất còn biết được của nước ta mang niên hiệu Thái Bình hưng bảo đúc thời Đinh (968 - 980) thế kỷ 10. Và tại cuộc trưng bày lần này, xưa nhất là đồng tiền thời Mạc đầu thế kỷ 16, mốc thời gian này có ý nghĩa không nhỏ trong lịch sử tiền tệ Việt Nam.  

Là vì, từ thời điểm đó, sau nhà Mạc, đồng tiền bước vào giai đoạn tao loạn, chia đôi theo cục diện Nam - Bắc phân tranh, dần dần đẩy nền tiền tệ Việt Nam vào hàng phức tạp trên thế giới.

Đàng ngoài có tiền nhà Lê trung hưng, chúa Trịnh. Đàng trong xài tiền chúa Nguyễn. Nhà Tây Sơn lên, dùng tiền Thái Đức, Quang Trung, Cảnh Thịnh. Đến nhà Nguyễn, từ vua Gia Long về sau đều có đúc tiền mang niên hiệu từng thời như Minh Mạng thông bảo, Thiệu Trị thông bảo, Tự Đức thông bảo... Quân Pháp qua, lập Ngân hàng Đông Dương (1875), độc quyền phát hành giấy bạc các loại. Sau lại in tiền của Viện phát hành các quốc gia liên kết Việt - Miên - Lào có giá trị thanh toán trên cả ba quốc gia. Rồi bạc Cụ Hồ ra đời (1946)...

Nếu kể chi tiết, đồng tiền Việt Nam quả mang dấu ấn các thời kỳ lịch sử sôi động, phân tranh, máu lửa, bất khuất và nhân nghĩa như câu ca: Tiền tài như phấn thổ (bụi đất). Nghĩa trọng tợ thiên kim (nghìn vàng). Con le le mấy thuở chết chìm. Người tình bạc nghĩa kiếm tìm làm chi?

Có thể bạn quan tâm