Theo Vụ trưởng Giáo dục ĐH, (Bộ GD và ĐT) Nguyễn Thị Kim Phụng, đến nay, cả nước đã có 23 trường ĐH triển khai thực hiện đào tạo 35 CTTT của 22 trường ĐH trên thế giới. Phần lớn giảng viên, trợ giảng tham gia giảng dạy CTTT của các trường đều được đào tạo từ những chương trình giảng dạy bằng tiếng Anh ở nước ngoài. Đến nay, các CTTT đã thu hút 63 GS, 356 PGS, 727 TS và 849 thạc sĩ tham gia giảng dạy. Các trường triển khai CTTT đã làm tốt việc chuẩn bị cơ sở vật chất.
Đáng chú ý, những sinh viên vào học CTTT thời gian đầu gặp khó khăn như: bỡ ngỡ với phương pháp giảng dạy và học tập mới, phải học bằng tiếng Anh, học với giảng viên nước ngoài… Vì vậy, để hỗ trợ sinh viên, một số trường đã tổ chức giảng dạy các học phần về kỹ năng nghe giảng, ghi chép trong giờ giảng, kỹ năng giao tiếp… lồng ghép với các học phần nâng cao trình độ tiếng Anh, nhằm chuẩn bị tâm lý cho sinh viên và để sinh viên làm quen với phương pháp giảng dạy mới, giảng viên nước ngoài. Bên cạnh đó, để nâng cao trình độ tiếng Anh cho sinh viên CTTT, nhiều trường mời giảng viên bản ngữ đến dạy tiếng Anh cho sinh viên như Trường ĐH Khoa học tự nhiên (ĐH Quốc gia Hà Nội), Trường ĐH Thủy lợi, Trường ĐH Giao thông vận tải, Trường ĐH Hàng hải Việt Nam. Trong đó, Trường ĐH Kỹ thuật Công nghiệp (ĐH Thái Nguyên) bố trí cho sinh viên, giảng viên nước ngoài ở cùng ký túc xá để có điều kiện giao lưu, trao đổi nâng cao năng lực tiếng Anh... Kết quả cho thấy, CTTT đã phát huy hiệu quả đào tạo sinh viên có năng lực kỹ năng, kiến thức tốt.
Đến thời điểm hiện tại, các CTTT đã có 3.601 sinh viên tốt nghiệp, trong đó 7,1% sinh viên xuất sắc; 34,3% sinh viên giỏi và 47,4% sinh viên khá, hầu hết sinh viên tìm được việc làm hoặc học tiếp lên trình độ cao hơn sau sáu tháng tốt nghiệp… Đánh giá về CTTT, GS Nguyễn Hữu Tú, Phó hiệu trưởng Trường ĐH Y Hà Nội cho biết: Một trong những thành công của CTTT là sinh viên của trường được học tiếng Đức và trải qua các kỳ thi tiếng đạt yêu cầu. Vì vậy, sau sáu tháng vừa học vừa làm, các em đã đạt được chứng chỉ hành nghề của CHLB Đức và có thể làm việc ở châu Âu suốt đời. Hiệu trưởng Trường đại học Ngoại thương Bùi Anh Tuấn đánh giá: Những tác động tích cực từ đào tạo theo CTTT đối với sự phát triển của trường về mọi mặt như chương trình đào tạo được chuẩn hóa theo chương trình của trường đối tác nước ngoài có uy tín; đội ngũ giảng viên có trình độ tiếng Anh và chuyên môn cao được chú trọng đào tạo và phát triển, tạo ra môi trường học tập năng động, thu hút được nhiều sinh viên quốc tế, sinh viên tốt nghiệp có chất lượng vượt trội; được các nhà tuyển dụng đánh giá cao... Điểm nổi bật là CTTT ngày càng có ảnh hưởng lan tỏa sang các chương trình giảng dạy khác, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo chung của nhà trường.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, Giám đốc Trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục (ĐH Quốc gia Hà Nội), GS Nguyễn Quý Thanh cho rằng, phải tránh tình trạng xem CTTT là bước đệm để sinh viên đi học nước ngoài. Về tổng thể, đó là xu hướng dịch chuyển tốt nhưng một chương trình đầu tư không ít tiền thì mục tiêu cuối cùng chính là nguồn nhân lực được đào tạo phải phục vụ phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam, mới được xem là hiệu quả. Mặt khác, ở một số CTTT, đội ngũ giảng viên các môn khoa học cơ bản, cơ sở còn yếu về tiếng Anh; đội ngũ trợ giảng, cố vấn học tập ở một vài trường còn thiếu và hiệu quả chưa cao. Vẫn có một số CTTT khó tuyển sinh như: Khoa học và kỹ thuật vật liệu, Toán học, Kỹ thuật y sinh hoặc có mức học phí thấp như Khoa học môi trường, Vật lý, Hóa học... cho nên ảnh hưởng đến phát triển bền vững.
Theo Bộ trưởng GD và ĐT Phùng Xuân Nhạ, bên cạnh những trường thực hiện tốt, vẫn có những trường từ người đứng đầu cho đến chủ nhiệm CTTT chưa nhận thức đúng, chưa chuyên nghiệp, quy trình chưa đồng bộ… dẫn tới hiệu quả trong quá trình triển khai còn thấp. Khi chọn CTTT, các trường cũng không dành nhiều thời gian để phân tích dự đoán chọn ra những ngành cần thiết cho nền kinh tế mà chủ yếu dựa vào ngành đã có thế mạnh, dẫn tới một số ngành quy mô nhỏ, sinh viên đầu vào chất lượng chưa tương xứng với mục tiêu của chương trình. Một bất cập nữa của một số cơ sở đào tạo khi tham gia các CTTT là sau khi sinh viên ra trường không theo dõi, thu nhận phản hồi của nhà tuyển dụng để có những đánh giá chất lượng hiệu quả đầu ra chính xác, qua đó có những điều chỉnh đối với chương trình giảng dạy cho sát thực tế và hiệu quả hơn.
Trong thời gian tới, để phát triển bền vững những mô hình CTTT, các trường cần tăng cường đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý đạt chuẩn khu vực và quốc tế; đẩy mạnh hoạt động khoa học công nghệ và hợp tác quốc tế. Nhất là, mở rộng đối tác quốc tế tham gia vào hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học; thực hiện kiểm định chương trình bởi các tổ chức kiểm định quốc tế. Bên cạnh đó, nhằm thu hút được người học có năng lực tốt theo học, các trường cần chia sẻ kinh nghiệm phát triển CTTT để nhân rộng những mô hình hiệu quả về quản lý và tổ chức đào tạo các CTTT. Khuyến khích các cơ sở giáo dục ĐH tích cực tham gia các chương trình trao đổi sinh viên quốc tế để sinh viên Việt Nam có nhiều cơ hội tiếp cận quốc tế, tăng thêm khả năng hội nhập quốc tế sau tốt nghiệp.