Bình luận - Phê phán

Đào tạo phải gắn với nhu cầu của xã hội

Theo Bản tin cập nhật thị trường lao động nước ta quý II năm 2016, do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội công bố ngày 17-8, hiện các nhóm có số người thất nghiệp cao nhất là nhóm có trình độ đại học trở lên, tiếp đến là cao đẳng chuyên nghiệp và trung cấp chuyên nghiệp. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này.

Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, quý II năm 2016, cả nước có hơn 1,088 triệu người trong độ tuổi lao động thất nghiệp. Trong số đó, thất nghiệp nhiều nhất là nhóm trình độ đại học trở lên với hơn 191.000 người, tiếp đến là cao đẳng chuyên nghiệp 94.800 người, trung cấp chuyên nghiệp 59.100 người. Như vậy, tổng số người thất nghiệp thuộc ba nhóm này là 344.900, chiếm gần một phần ba trong số 1,088 triệu người trong độ tuổi lao động không có việc làm. Con số trên đây ít nhất cũng cho thấy hai vấn đề: một là, chất lượng đào tạo; hai là, nhu cầu lao động của xã hội.

Trên thực tế, việc người được đào tạo từ các trường cao đẳng, trung cấp, đến người có bằng cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ thất nghiệp không còn hiếm trong các năm gần đây. Ngày càng nhiều cử nhân ra trường phải rất chật vật mà vẫn khó tìm được việc làm đúng ngành nghề được đào tạo, nhiều người phải làm phụ hồ, vận chuyển hàng hóa cho các cơ sở kinh doanh, làm công nhân ở khu công nghiệp, làm bảo vệ nhà hàng, vũ trường... Thậm chí, có cử nhân bằng giỏi mà vẫn bị nhà tuyển dụng từ chối, phần lớn vì những gì họ tiếp thu trên giảng đường lại khác xa so với những gì nhà tuyển dụng cần ở họ.

Có nhiều nguyên nhân đẩy tới tình trạng thất nghiệp đáng báo động của những người được đào tạo từ trung cấp trở lên. Một trong các nguyên nhân là trong khi thị trường lao động luôn biến động, ngày càng có nhiều ngành nghề mới, cộng thêm số cử nhân mỗi năm ra trường tăng đều,... thì công tác dự báo nhu cầu việc làm của xã hội còn yếu, chưa đưa ra được dự báo chính xác về nhu cầu nhân lực; thông tin về thị trường lao động chưa trực tiếp đến với từng người lao động; hoạt động hỗ trợ tìm việc làm chưa thường xuyên; thị trường và nguồn nhân lực chưa được kết nối chặt chẽ, nên có tình trạng việc chờ người, nhưng người vẫn thất nghiệp. Bên cạnh đó, một vấn đề đã được nói đến khá nhiều nhưng chưa được giải quyết thỏa đáng là sự ồ ạt, dễ dãi khi mở quá nhiều trường đại học và ngành nghề đào tạo song quản lý chưa thật sự tốt, dẫn đến đào tạo đại học chỉ tăng về số lượng mà chất lượng chưa bảo đảm, chưa đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực phục vụ phát triển.

Hiện cả nước có 412 trường đại học, cao đẳng, bình quân mỗi tỉnh, thành phố có khoảng 6,6 trường đại học, cao đẳng; cả nước có khoảng 2,2 triệu sinh viên trong tổng dân số 95 triệu dân. Đây là con số khá lý tưởng, nếu đi cùng với chất lượng đào tạo và sinh viên ra trường tìm được việc làm. Tuy nhiên, sự gia tăng về số lượng trường đại học và số lượng ngành đào tạo lại chưa được nghiên cứu kỹ lưỡng, cơ cấu đào tạo của nhiều trường đại học chưa căn cứ vào nhu cầu thực tiễn, nên chưa phù hợp nhu cầu cơ cấu lao động. Hệ quả tất yếu là sinh viên ra trường không chỉ khó tìm việc làm phù hợp ngành nghề được đào tạo, mà còn khó tìm việc làm khác.

Bên cạnh đó, việc mở rộng quy mô các trường và ngành đào tạo đôi khi lại xuất phát từ mục đích thương mại hóa giáo dục, từ sự yếu kém trong quản lý tài chính. Cơ chế tự chủ tài chính khiến việc mở rộng về quy mô đào tạo nhiều khi chỉ nhằm có thêm nguồn tài chính. Bởi tăng số lượng trường, tăng số lượng ngành đào tạo đồng nghĩa với việc tăng giảng viên, tăng sinh viên mà ít chú ý tới nhu cầu thực tế của xã hội, cũng như thị trường lao động. Chưa kể, số lượng giảng viên tăng nhưng chất lượng lại chưa tương xứng. Theo PGS, TS Nguyễn Ngọc Quang, một số giảng viên còn hạn chế về kỹ năng thực tiễn và về học thuật chuyên môn, vì khâu tuyển chọn giảng viên ban đầu chưa kỹ, còn mang nặng tính hành chính, chưa chú trọng tính đặc thù là khả năng nghiên cứu khoa học, quá trình đào tạo,...

Một nguyên nhân khác là chương trình đào tạo đại học hiện nay còn nặng về lý thuyết, nên nhiều cử nhân, nhất là những người trong suốt quá trình học, chỉ bám giảng đường thật sự bỡ ngỡ khi bước vào môi trường công việc, không đáp ứng được nhu cầu công việc, dẫn đến thất nghiệp. Có ý kiến cho rằng, giáo trình đào tạo của một số trường đại học chưa gần và sát thực tiễn. Thậm chí, còn có tình trạng sao chép giáo trình đào tạo giữa các trường đại học, nên tất yếu sẽ xảy ra tình trạng phù hợp với trường này lại không phù hợp với trường kia. Ngoài ra, chương trình giáo dục đại học hiện chưa chú trọng đến việc đào tạo kỹ năng mềm, kỹ năng giao tiếp, các kiến thức văn hóa, xã hội, năng lực tư duy… Thiếu kỹ năng mềm, thiếu trải nghiệm thực tế là điều mà hầu hết các nhà tuyển dụng đều nhận thấy ở nhiều cử nhân khi tới xin việc. Các kỹ năng đơn giản như gửi email, cách giao tiếp, kỹ năng văn phòng đơn giản (photo, in ấn, sắp xếp công văn, giấy tờ)... đều là điểm yếu mà nhiều cử nhân chưa nhận ra để khắc phục. Những kiến thức học được từ giảng đường là cần thiết nhưng chưa đủ, nhất là trong bối cảnh nhiều nội dung học tập có thể khai thức từ sách vở, internet thì việc tiếp nhận, bổ sung vào giáo trình đào tạo đại học những kỹ năng mềm, kỹ năng thực tế là không thể thiếu.

Bên nhiều nguyên nhân khách quan, còn có nguyên nhân chủ quan từ chính phụ huynh và học sinh. Nhiều người coi vào đại học là con đường duy nhất để phát triển, nên cố gắng bằng mọi cách mà không xem xét, cân nhắc năng lực, sở thích, điều kiện kinh tế gia đình. Rồi nữa là chọn trường theo bạn bè, theo điểm chuẩn năm trước, theo trào lưu, thậm chí là chỉ “nghe nói” ngành này ra trường dễ tìm việc, ngành kia thì “dễ kiếm tiền”… Có bạn trẻ bỏ qua trường dạy nghề vì cho rằng “đại học vẫn sang hơn” nên cứ học đã, việc làm tính sau. Và tới khi trở thành sinh viên, thì không phải người nào cũng xác định thái độ nghiêm túc trong học tập, nhiều người ít tập trung trau dồi tri thức và kỹ năng, không chủ động tích lũy kinh nghiệm qua giao tiếp trong nhà trường, trong xã hội, trong các đợt đi thực tập, nghiên cứu…

Cũng theo nghiên cứu của GS Nguyễn Ngọc Quang, chất lượng sinh viên có thể chia thành ba nhóm: Nhóm thứ nhất khoảng 20% là các sinh viên tích cực, chăm chỉ học tập, thái độ nghiêm túc; Nhóm thứ hai khoảng 30% là các sinh viên học bình thường; Nhóm thứ ba khoảng 50% là sinh viên học đối phó, lười học. Nhưng kết quả cấp bằng của một số ngành lại là con số phải suy nghĩ: khoảng 70% bằng giỏi! Đã có nhà tuyển dụng phải lắc đầu khi tiếp xúc với các ứng viên chỉ có lý thuyết, thiếu kinh nghiệm, không mặn mà với công việc, thậm chí có người ngỏ ý chỉ làm việc mà mình yêu thích, đôi khi đưa ra yêu cầu không tưởng về mức lương, cơ hội thăng tiến và đương nhiên, nhà tuyển dụng sẽ không thể chấp nhận những ứng viên viển vông, ngộ nhận như vậy.

Để giải quyết vấn đề thất nghiệp đối với những người tốt nghiệp từ trung cấp đến trên đại học, thiết nghĩ trước hết cần đẩy mạnh hoạt động thông tin, dự báo thị trường lao động, tăng tần suất hoạt động của các sàn giao dịch, ngày hội việc làm… Công tác dự báo về việc làm cần bảo đảm chính xác và sát nhu cầu thực tế của xã hội. Đồng thời, chú trọng đổi mới nội dung, chương trình đào tạo. Bên cạnh việc dạy kiến thức, cần chú trọng đào tạo kỹ năng mềm, kỹ năng giao tiếp, kiến thức văn hóa, xã hội, năng lực tư duy… và đặc biệt là cần giúp sinh viên có trải nghiệm thực tế. Nhà trường thay vì là nơi chỉ học để lấy bằng, sẽ là nơi có ích cho quá trình làm việc của sinh viên sau này.

Cần lưu ý tới ý kiến của nhiều nhà tuyển dụng cho rằng, giáo dục cần gắn với thực tế bằng cách xây dựng liên hệ chặt chẽ giữa doanh nghiệp với các cơ sở đào tạo, để chọn lọc, hướng dẫn nghiệp vụ, tạo điều kiện giúp sinh viên làm quen với môi trường làm việc ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Và quan trọng nhất vẫn là người học. Xã hội ngày càng phát triển, mọi người tự chọn ngành nghề phù hợp năng lực, điều kiện bản thân. Đại học không phải là con đường duy nhất để mưu sinh, mà lựa chọn nghề nghiệp phù hợp mới là bảo đảm cho tương lai. Giải quyết tình trạng thất nghiệp không thể làm được ngay. Điều quan trọng là cần sự chủ động vào cuộc, sự phối hợp của nhiều bộ, ngành để có giải pháp đáp ứng nhu cầu thị trường lao động, cân bằng cơ cấu việc làm giữa những nhóm trình độ khác nhau.

Có thể bạn quan tâm