Ðào tạo chưa đáp ứng nhu cầu
Nhu cầu về nhân lực công nghệ thông tin (CNTT), đặc biệt nhân lực làm phần mềm ở Việt Nam đang tăng nhanh. Theo quy hoạch đến năm 2020, Việt Nam sẽ đào tạo gần 800 nghìn nhân lực CNTT các cấp độ phục vụ các doanh nghiệp trong lĩnh vực CNTT và truyền thông. Bộ TT-TT phối hợp với Bộ GD-ÐT xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch đào tạo 140.000 người có trình độ CÐ, ÐH trở lên về CNTT, điện tử, viễn thông, trong đó một phần mười có trình độ thạc sĩ trở lên; 530.000 người có trình độ CÐ hoặc tương đương trở lên; đào tạo nghề các trình độ cho 110.000 người.
Cũng từ nay đến 2020, phải xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và bổ sung 21.000 giảng viên CNTT cho các trường ÐH, CÐ, TCCN và dạy nghề với một nửa có trình độ thạc sĩ trở lên và 38.000 giáo viên dạy tin học cho các cơ sở giáo dục phổ thông.
Ðến năm 2015, ở bậc ÐH, CÐ phải bảo đảm tỷ lệ 15 sinh viên có một giảng viên CNTT; 70% giảng viên đại học và hơn một nửa giảng viên cao đẳng có trình độ thạc sĩ trở lên, hơn một nửa giảng viên đại học và ít nhất 10% giảng viên cao đẳng có trình độ tiến sĩ.
Chưa kể, các công ty nước ngoài đầu tư vào Việt Nam cũng đang rất cần huy động nguồn nhân lực. Chẳng hạn, sau quá trình hai năm phát triển tại Việt Nam, năm 2007, IBM cần 1.000 kỹ sư phần mềm, năm sau tăng lên 2.000 kỹ sư và tiếp tục tăng mạnh trong những năm tới. Hãng Boeing cũng đang tìm đối tác tại Việt Nam, và mỗi hợp đồng cần tối thiểu 1.000 kỹ sư phần mềm...
Tuy nhiên, trên thực tế hệ thống đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin trong nước vẫn tồn tại nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu ứng dụng và phát triển tin học của đất nước.
Hiện nay, cả nước có 57 trường ÐH và 72 trường CÐ đào tạo chuyên về CNTT với quy mô đào tạo hằng năm xấp xỉ 10 nghìn sinh viên. Ngoài ra còn có các cơ sở đào tạo phi chính quy liên kết với nước ngoài như Aptech, NIIT, Informatics Vietnam, Informatics Singapore, KENT... Các trung tâm tin học đào tạo khóa ngắn hạn, đào tạo theo chuyên ngành, đào tạo từ xa và đào tạo trong doanh nghiệp cũng được mở ra ở các thành phố lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Ðà Nẵng... Ðó là chưa nói đến một số lượng đáng kể các cơ sở liên kết với những trường đại học lớn ở nước ngoài.
Mặc dù số lượng đầu mối về đào tạo CNTT đã tăng rất nhanh trong những năm gần đây; các loại hình đào tạo cũng đã được đa dạng hóa; các chính sách ưu đãi cũng đã được ban hành nhưng nguồn nhân lực CNTT vẫn còn nhiều bất cập. Kết quả giám định kỹ năng kỹ sư CNTT cơ bản căn cứ vào tiêu chuẩn của Nhật Bản tại Trung tâm sát hạch và hỗ trợ đào tạo VITEC thuộc Bộ Khoa học công nghệ, từ năm 2001 đến 2005, trong số 2.285 kỹ sư tham gia thi chỉ có 367 người được cấp chứng chỉ, chiếm tỷ lệ 16,06%. Mới đây, một công ty hàng đầu của Nhật có cử các chuyên gia sang Việt Nam tìm kiếm năm sinh viên CNTT, đào tạo để làm việc cho hãng, cuối cùng, ròng rã hai tháng chỉ chọn được ba ứng cử viên.
Theo đánh giá của nhiều hãng nước ngoài, nguồn nhân lực CNTT của Việt Nam sau đào tạo có nền tảng kiến thức tốt, nhưng năng lực ứng dụng còn rất hạn chế.
TS Mai Liêm Trực cho rằng: "Ðào tạo nguồn nhân lực cao cấp ở các trường đại học trong nước là chưa đạt yêu cầu. Nói là đào tạo nhân lực cao cấp, nhưng thực tế chúng ta mới đào tạo ở mức phổ cập đại trà. Kỹ sư CNTT ra trường làm gì liên quan đến CNTT cũng được, nhưng về chuyên môn thì chưa đủ chất lượng so với nhu cầu về nguồn nhân lực".
Nguyên nhân nào?
Nhận xét về chương trình đào tạo CNTT hiện nay, sinh viên Trần Tuấn Anh, đang học năm thứ tư khoa CNTT cho biết: Hạn chế cơ bản hiện nay là học lý thuyết nhiều, thực hành ít, không sát với thực tế, chưa kể cách giảng dạy còn gây áp lực cho sinh viên. Ðể nâng cao chất lượng, cần phải thay đổi kiểu đào tạo, bởi nếu cứ kéo dài tình trạng như thế này thì chỉ làm tăng số sinh viên CNTT thất nghiệp mà thôi.
Nhà giáo Nguyễn Ngọc Long (Phó khoa công nghệ thông tin - Trường ÐH Tôn Ðức Thắng) cũng nhận xét: "Ðào tạo CNTT ở các trường đại học hiện nay chủ yếu dạy nguyên lý, giải quyết các bài toán tổng quát. Do đó, sinh viên khi ra trường chưa được làm quen với công nghệ mới và họ phải có thời gian thích nghi với một công việc cụ thể nào đó. Nhà trường chỉ đào tạo nền tảng chứ không đào tạo theo đúng yêu cầu cụ thể của một doanh nghiệp". Chưa kể, do đây là một ngành đặc thù, công nghệ thay đổi hàng ngày, hàng giờ, mặc dù nhà trường luôn cập nhật nhưng cũng không thể tránh khỏi chương trình khung, chương trình cơ bản đã định sẵn. Vì thế các doanh nghiệp khi sử dụng nhân lực trong từng lĩnh vực cụ thể thường phải đào tạo lại cho phù hợp, coi đó là một yêu cầu "bắt buộc".
Một trong những nguyên nhân quan trọng được các chuyên gia quốc tế đưa ra là Việt Nam hiện vẫn chưa xây dựng hệ thống chuẩn chất lượng đào tạo CNTT. Ngành giáo dục vẫn chưa có được hệ thống văn bằng quốc gia, khiến công tác này thiếu sự chuẩn hóa và liên thông.
Theo Thứ trưởng Bộ GD-ÐT Trần Văn Nhung, việc đào tạo nguồn nhân lực CNTT đáp ứng cho nhu cầu phát triển xã hội ngày càng là đòi hỏi bức thiết. Bởi vậy cần có sự kết hợp giữa đơn vị đào tạo với nhu cầu xã hội, và tìm kiếm một quy chuẩn chung dựa trên quan điểm tương đương về bằng cấp, trình độ so với thế giới. Ðã đến lúc phải xây dựng những hệ thống chuẩn đánh giá chất lượng đào tạo CNTT như cơ sở vật chất, giáo trình, trình độ giáo viên, môi trường thực hành và chất lượng nguồn nhân lực sau đào tạo, rồi kiến thức chuyên ngành, độ sẵn sàng, trình độ kỹ năng, sáng tạo... Bên cạnh đó, xã hội cũng cần thay đổi các quan niệm cũ về đào tạo trong lĩnh vực này. Chẳng hạn, chúng ta quen coi các chương trình đào tạo của những hãng lớn như Microsoft, Orace, IBM... là phi chính quy, nhưng thực tế những người có chứng chỉ này, có thể được nhận vào làm việc ở nhiều nơi trên thế giới, trong khi hệ thống đào tạo chính quy thì chưa được như vậy.
Trong buổi làm việc với lãnh đạo Bộ Thông tin và Truyền thông mới đây, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân cũng cho rằng, cần phải có cơ quan kiểm định chất lượng đào tạo CNTT. Theo đó, nên có một trung tâm kiểm định cấp quốc gia để cấp chứng chỉ. Ngoài ra cần có những trung tâm tư nhân do Nhà nước công bố tiêu chí và giám sát hoạt động để hình thành một hệ thống kiểm định chất lượng nhân lực CNTT. Việt Nam cũng nên chọn chuẩn nước ngoài để áp dụng. Có chuẩn này, các công ty nước ngoài khi vào Việt Nam mới có thể đặt các trường đào tạo nhân lực cho mình.
Một trong những nội dung chủ yếu của chương trình phát triển nguồn nhân lực CNTT ở Việt Nam từ nay đến năm 2010 là tăng cường sự tham gia quốc tế. Việc này được cụ thể hóa với các hình thức: liên kết đào tạo do nước ngoài cấp bằng; gửi đi nước ngoài đào tạo hằng năm 65 thạc sĩ và tiến sĩ; khuyến khích thành lập cơ sở đào tạo CNTT 100% vốn nước ngoài. Ðể có thể huy động tối đa các nguồn lực từ Nhà nước, doanh nghiệp và xã hội đầu tư vào lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực CNTT, Bộ Thông tin và Truyền thông đã đề nghị cần áp dụng một số cơ chế chính sách đặc thù trong đào tạo nguồn nhân lực CNTT. Cụ thể, cần có chính sách cởi mở, thông thoáng hơn trong việc thành lập các trường đào tạo CNTT nhằm huy động tối đa nguồn lực từ Nhà nước, doanh nghiệp và xã hội đầu tư vào lĩnh vực này. Cần cho phép các trường thêm quyền chủ động, tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong các vấn đề như chỉ tiêu, cách thức tuyển sinh, chương trình, giáo trình, học phí...