Ðại học Việt Nam hiện đại đã có truyền thống 100 năm tính từ Ðại học Ðông Dương thời trước. Sự ra đời của Ðại học Ðông Dương đánh dấu bậc thang mới của hệ thống giáo dục hiện đại Việt Nam trên con đường tiếp cận các đỉnh cao của tri thức nhân loại, thay thế cho nền giáo dục kiểu Nho giáo đã tồn tại hàng nghìn năm ở nước ta. Ðại học Ðông Dương không những là trường đại học hiện đại đầu tiên ở Ðông Dương, mà còn là một trong không nhiều trung tâm giáo dục đại học kiểu phương Tây ra đời sớm nhất ở châu Á. Mô hình tổ chức và chương trình đào tạo của Ðại học Ðông Dương được rập khuôn theo nền giáo dục Pháp, thu hút khá nhiều thanh niên bản xứ thời bấy giờ theo học. Trong số đó, không ít thanh niên Việt Nam yêu nước đã nuôi chí duy tân đất nước, học để cứu nước khỏi ách nô lệ. Ngay từ buổi đầu, giá trị nhân văn của Ðại học Ðông Dương đã hình thành, vượt lên trên tất cả những ý đồ thực dân.
Sau Cách mạng Tháng Tám-1945, ngày 15-11-1945, Trường đại học quốc gia Việt Nam - trường đại học đầu tiên của Nhà nước Việt Nam độc lập, đã long trọng tổ chức lễ khai giảng đầu tiên dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trường đại học quốc gia Việt Nam kế thừa nền tảng học thuật hiện đại của Ðại học Ðông Dương, đồng thời bổ sung và phát triển những yếu tố tiên tiến mang tính cách mạng và nhân dân sâu sắc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vừa phát huy truyền thống văn hiến của dân tộc.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, các lớp đại học kháng chiến đã được tổ chức ở các chiến khu, các trường khoa học cơ bản, sư phạm được xây dựng tại Khu học xá Nam Ninh (Trung Quốc) và các trường dự bị đại học được hình thành ở vùng tự do. Hòa bình lập lại, năm 1954, các trường đại học kháng chiến đã nhanh chóng về tiếp quản thủ đô Hà Nội. Năm 1956, một số trường đại học lớn về từng lĩnh vực được thành lập ở miền bắc. Sau một thế kỷ, hệ thống các trường đại học Việt Nam đã không ngừng phát triển về cả mạng lưới, quy mô và chất lượng đào tạo, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đào tạo nguồn nhân lực khoa học, kỹ thuật phục vụ đất nước.
Khoa học thế giới đã và đang phát triển theo quy luật đi từ sự thống nhất đến chuyên môn hóa. Sau hơn hai thiên niên kỷ phát triển, khoa học đã đạt được mức độ chuyên môn hóa cao độ, phân chia thành các ngành, chuyên ngành sâu và hẹp. Sự phát triển đó đã cho phép các nhà khoa học tập trung nghiên cứu chi tiết, tỉ mỉ các khía cạnh khác nhau của vật chất và các quy luật vận động của chúng, tạo ra sự hiểu biết sâu sắc trong từng lĩnh vực riêng biệt. Theo xu hướng đó, Việt Nam đã xây dựng được nền khoa học với hệ thống các ngành, chuyên ngành rất phong phú. Tương tự, các chương trình đào tạo đại học, sau đại học cũng được tổ chức theo hệ thống các mã số đơn ngành, hướng theo việc đào tạo các ngành nghề cụ thể và đa dạng.
Ngày nay, quy luật phát triển theo chu kỳ xoắn ốc đang đưa khoa học trở về sự thống nhất với mức độ và trình độ rất cao. Ðặc biệt trong đó, các khoa học liên ngành, đa ngành, các ngành khoa học giáp ranh như: công nghệ sinh học phân tử, công nghệ môi trường, khoa học và công nghệ nano,... đang hứa hẹn mang một chất lượng mới đến cho cuộc sống loài người. Tuy nhiên, khoa học cũng đang đối mặt với các vấn đề yêu cầu năng lực tổng hợp của các nhà khoa học, yêu cầu sự tham gia đồng thời của toàn bộ các ngành khoa học chứ không phải riêng một ngành nào.
Trước những thời cơ và vận hội mới, tiếp tục đổi mới giáo dục đại học nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế và kỹ thuật trong xu thế cạnh tranh toàn cầu, chúng ta đang đặt mục tiêu đến năm 2020 giáo dục đại học Việt Nam đạt trình độ tiên tiến khu vực, tiếp cận trình độ tiên tiến trên thế giới, trong đó việc xây dựng một vài đại học đẳng cấp quốc tế cũng được đặt ra. Ðây cũng là một vấn đề đang được các nhà khoa học và nhà quản lý bàn luận sôi nổi, đặc biệt là sau chuyến thăm các trường đại học nổi tiếng ở Hoa Kỳ, của Thủ tướng Phan Văn Khải, vào mùa hè năm ngoái.
Ngày nay, một chức năng mới của giáo dục đại học về phát triển giao lưu văn hóa và phát triển bền vững đang thu hút sự quan tâm của nhiều người. Nhưng chúng ta hãy bắt đầu từ điều cơ bản đầu tiên là hãy xây dựng trường đại học đúng với chức năng nhiệm vụ vốn có của nó. Ðó là việc truyền thụ kiến thức và sáng tạo tri thức, trong đó nhiệm vụ sáng tạo tri thức là vấn đề cốt lõi tạo ra sự khác biệt giữa trường đại học và các loại trường khác. Trường đại học không chỉ đào tạo nguồn nhân lực, mà còn phải tổ chức thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và công nghệ - yếu tố càng trở nên cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế tri thức. Danh tiếng của các trường đại học trên thế giới thường gắn với tầm vóc các công trình khoa học và tên tuổi các nhà khoa học phát minh ra chúng. Trong việc xếp hạng các trường đại học hiện nay, các tiêu chí về nghiên cứu khoa học được quan tâm hàng đầu với trọng số rất cao. Ðã có những giai đoạn, một số trường đại học của ta về thực chất mới chỉ thực hiện chức năng truyền thụ kiến thức.
Trong điều kiện hiện nay, các trường đại học định hướng giảng dạy (teaching university) như vậy vẫn cần thiết tồn tại để đáp ứng được nhu cầu đào tạo nghề nghiệp cụ thể, giải quyết một số yêu cầu trước mắt của nền kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, vấn đề xây dựng các trường đại học "đầu tàu" có ý nghĩa chiến lược lớn hơn. Việc xây dựng một trường đại học đẳng cấp quốc tế chỉ đạt được những mục tiêu toàn diện khi đi kèm theo đó là những cải cách giáo dục đại học mang tính chiến lược, phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Các "đầu tàu" của đại học Việt Nam hiện đại được xây dựng theo mô hình định hướng nghiên cứu (research university), trong đó các chức năng của trường đại học được quan tâm một cách đầy đủ.
Trong các trường đại học như vậy có thể có sự tham gia của người nước ngoài ở một số khâu quản lý, tổ chức đào tạo và nghiên cứu khoa học, nhất là trong thời kỳ khởi đầu, nhưng về cơ bản các trường đại học "đầu tàu" của Việt Nam phải do người Việt Nam quản lý, phục vụ trực tiếp cho công cuộc CNH, HÐH ở Việt Nam. Ðiều này là hợp lý, vì nước ta có nguồn nhân lực rất tiềm năng, thông minh và hiếu học. Chỉ có điều là đội ngũ giảng viên và quản lý của trường phải được tuyển chọn một cách cẩn trọng theo các tiêu chuẩn quốc tế và trong suốt quá trình làm việc luôn luôn đòi hỏi phải tự vượt qua được chính mình.
Phấn đấu trở thành một giảng viên đại học thực thụ với đầy đủ chức trách là một nhiệm vụ khó khăn. Chức danh giảng viên không có nghĩa sẽ tự động đem lại danh tiếng cho cá nhân nhờ đứng trên bục giảng, mà chỉ là cơ hội để được thực hiện đam mê nghiên cứu khoa học, được làm việc nhiều giờ trong ngày, chuẩn bị cho những hy sinh cá nhân, suốt đời cống hiến cho khoa học. Ðây có lẽ là yếu tố quan trọng bậc nhất quyết định chất lượng của đại học Việt Nam hiện đại.
Sứ mệnh của các đại học "đầu tàu" không phải là đào tạo kỹ năng nghề nghiệp mà là đào tạo, bồi dưỡng năng lực sáng tạo, ý chí khởi nghiệp và trình độ quản lý, lãnh đạo cho người học. Kết hợp với chiến lược chuyển giao công nghệ, xây dựng các công ty và các vườn ươm khoa học - công nghệ trong trường đại học, phương pháp đào tạo trên đây chắc chắn sẽ tạo ra được một lực lượng lao động với những phẩm chất mới cần thiết cho một dân tộc tự cường. Trong kỷ nguyên hội nhập, các đại học Việt Nam cần phải thiết lập tốt quan hệ với các đối tác đại học và công ty nước ngoài để thực hiện chương trình trao đổi học giả, trao đổi sinh viên, tạo điều kiện cho sinh viên có một thời gian học tập, thực hành ở nước ngoài. Thông qua hoạt động này, sinh viên sẽ có được tầm nhìn quốc tế, hiểu biết thêm văn hóa các nước và rèn luyện thêm khả năng sáng tạo, nhưng trái tim vẫn thuộc về Việt Nam.