Người chiến sỹ cách mạng giờ 85 tuổi ấy vẫn nhớ chuỗi ngày bị tra tấn, tù đầy trong ngục và một cuộc vượt ngục kỳ lạ dù quãng hồi ức ấy không liền mạch bởi lý do sức khoẻ.
Khi xung phong nhận năm quả mìn đi đánh tàu An tin-Đúp phê – chuyên chở quân trang, quân dụng từ cảng Hải Phòng về chi viện cho quân đội Pháp ở Thái Bình và mặt trận ba tỉnh Hà Nam-Nam Định-Ninh Bình, ông Chính được đồng đội truy điệu sống. Thời điểm đó, khi nhận nhiệm vụ nguy hiểm, ai cũng ý thức một đi không trở lại. Cuộc chia ly không có nước mắt mà chỉ là những bàn tay xiết chặt bàn tay, những cái ôm động viên đồng đội.
Do tàu địch gắn sẵn hệ thống camera theo dõi, ông Vinh bị lộ sớm. “Giá mà mình không “tham” đánh cả đội tàu mà cho mìn nổ ngay gần bờ. Dẫu rằng mình hi sinh… vẫn còn sướng hơn rơi vào tay định!”, ông Chính nuối tiếc.
Tiếp theo đó là những trận đòn thừa chết thiếu sống của địch. Bị dìm trong thùng phuy đựng toàn nước trộn ớt dìm đầu chìm nghỉm, bị cho vào thùng phuy rỗng đậy kín gõ cho đến khi bất tỉnh, bị treo ngược lên xà nhà hoặc cho chó béc-giê cắn nát hai ống chân...nhưng tất cả những đòn tra tàn bạo ấy đều không làm ông nao núng. Ông Vinh bị đưa về giam ở Đề Lao, rồi lại bị chuyển về nhà tù Hỏa Lò. Ngày 31-5-1951, ông bị tuyên án tử hình và chịu quản chế đặc biệt. Mắc bệnh hiểm nghèo, bị xác nhận là không thể qua khỏi và bị ném ra nhà xác tại Hoả Lò. Những người bạn tù Hỏa Lò đã lặng lẽ làm lễ truy điệu ông mà họ cũng hề hay biết, ông lại được truy điệu … sống.
Tại nhà tù Hoả Lò khét tiếng, địch cùm tử tù 23 giờ mỗi ngày. Tù nhân chỉ được ra sân hai lần, mỗi lần nửa giờ. Cách một tiếng giám thị lại vào kiểm tra hành lang ngoài, hoặc bí mật đi vòng đằng sau trại. Tử tù muốn thoát ra ngoài phải qua bảy lần cửa sắt, chỉ riêng ra được đến sân ngục tử hình cũng mất ba lần mở khóa... Nhưng cùng cực chốn lao tù càng nung nấu chí vượt ngục trong ông và các tử tù khác.
Đầu năm 1951, tổ Đảng xà lim tử tù nhà tù Hỏa Lò quyết định tổ chức vượt ngục cho 17 tử tù. Nhiều phương án được đưa ra như: mua chuộc giám thị làm nội ứng, phối hợp với bên ngoài hành động; bắt trói giám thị cướp chìa khóa, mở cửa vượt tường trốn; làm chìa khóa giả, cưa chấn song, chui cống ngầm thoát ra ngoài. Sau khi cân nhắc kỹ các phương án, phương án chui cống được lựa chọn vì khả năng thành công nhiều nhất.
Báo cáo đặc biệt về kế hoạch vượt ngục được bí mật gửi đến lãnh đạo Quận ủy nội thành và được chấp thuận. Lưỡi cưa sắt, bản đồ đường cống ngầm, tiền... đã được chuyển đến tận tay Chi ủy nhà tù Hỏa Lò an toàn. Hai chiếc lưỡi cưa sắt loại nhỏ được cuộn tết vào quai giỏ làn mây dùng để đựng đồ thăm nuôi chuyển vào và giao cho ông Chính cất giữ. Toàn bộ việc làm chìa khóa, cưa song sắt buồng giam, song sắt cửa hành lang vào khu xà lim tử tù và song sắt dưới cống ngầm đều do ông Chính thực hiện.
Khó nhất là việc chui xuống cống ngầm cưa chấn song sắt rất lớn, vì miệng cống nhỏ, lại là đường cống xả nước thải của khu vệ sinh và trạm xá. Mỗi lần xuống cống là mỗi lần nằm trong đống nước phân, rác, bông băng lau rửa vết thương hôi thối, tanh ngòm, mà phải cố bò trườn mới vào được. Nhưng nhiệm vụ đã nhận, phải quyết hoàn thành.
Đúng 19 giờ đêm Noel năm 1951, sau khi giám thị đi kiểm tra lần đầu, các tử tù được lệnh chỉ mặc nguyên quần lót, đem theo một bộ quần áo bọc trong ni-lông, quần áo còn lại sắp xếp gọn gàng rồi phủ chăn lên ngụy trang giống hệt như đang nằm ngủ để đánh lừa giám thị. Cửa khoá buồng giam bật mở, mười bảy tử tù chia làm ba nhóm, xen kẽ giữa người Hà Nội với người ngoại tỉnh, lần lượt, lặng lẽ chui xuống cống ngầm. Nhưng không may cho họ, cuộc vượt ngục đã không trọn vẹn vì kẻ địch đã phát hiện và tổ chức lực lượng truy bắt tù nhân trốn ngục.
Chỉ có năm người gồm ông và các đồng chí: Nguyễn Gia Thiết, Vũ Đình Quang, Vũ Đình Khôi và Nguyễn Văn Hùng chạy thoát, còn mười hai người bị bắt lại.
Thoát khỏi cửa ngục Hoả Lò nhưng chưa bắt được liên lạc với tổ chức ngay, lại sợ bị địch bắt lại, ông Chính phải chui xuống huyệt mộ mới bốc ngoài nghĩa trang để trốn. Sự khắc nghiệt của thời tiết mùa đông, lại không có gì để ăn nên ông cứ lịm dần đi trong ..huyệt mộ trống. Hơn mười ngày sau, khi được đồng đội phát hiện ông chỉ còn thở rất yếu.
Hai lần được truy điệu sống, vài lần đến rất gần cửa ngõ tử thần, nhưng ý chí cách mạng đã giúp người chiến sỹ trung kiên Vũ Đức Chính vượt qua tất cả, tiếp tục dốc sức còn lại của mình cống hiến cho đất nước.