Cuộc đổi đời của người Rục

Khoảng những năm 1958, 1959, đã có lời đồn về một nhóm "người nguyên thủy" đang sinh sống ở miền tây Quảng Bình. Theo nhà nghiên cứu văn học dân gian Ðinh Thanh Dự, thì trước năm 1945, cha ông là Ðinh Cường và chú ruột của ông là Ðinh Hương khi đi rừng, đến Báng Xang, Bó Rọ (huyện Minh Hóa - Quảng Bình) thì gặp người Rục. Nhưng bà con lảng tránh, không muốn tới gần. Dù vậy, hai cụ vẫn nói chuyện với họ bằng tiếng Sách, tiếng Nguồn, dù không hiểu được mấy. Chính vì thế, tôi đã ao ước đến một lần được gặp họ, vậy mà phải ba mươi năm sau, ao ước ấy mới được thực hiện.

Năm 1991, lần đầu tiên tôi tới Cú Nhái. Ðể tới "lãnh địa của người rừng", chúng tôi men theo con đường mới mở. Gọi là đường chứ thật ra người ta chỉ nổ mìn, dọn đá cho có lối thông ven sườn núi để khỏi trượt chân rơi xuống vực. Sau sáu giờ đồng hồ leo núi, chui rừng, qua bản Yên Hợp của đồng bào Sách, chúng tôi đã đến bản Mò o - Ồ ồ. Theo TS Trần Trí Dõi, Ðại học KHXH và NV thuộc Ðại học Quốc gia Hà Nội, người từng bỏ công nghiên cứu người Rục từ những năm 70, thì tộc danh "người Rục" có từ những năm sau Cách mạng Tháng Tám. Người Rục vốn là láng giềng của người Sách, từng đạt tới trình độ văn minh như người Sách, người Mày. Ba tộc người này đều tự nhận mình là người Chứt, vì có chung đặc điểm là "những người sống trong hang đá", cùng với người Arem và Mã Liềng hợp thành dân tộc Chứt, như theo Quyết định 121-TCTK của Tổng cục Thống kê, ngày 2-3-1979. Ðầu năm 1960, người Rục được vận động và tập trung sống ở vùng Cú Nhái, sau này là bản Hợp Hòa. Lúc ấy người Rục chỉ có 34 người, gồm 11 nam, 23 nữ, bốn em nhỏ và một già làng là ông Vịp.

Trạm y tế mới xây dựng tại bản.

Ðêm. Bên bếp lửa trong căn nhà chật chội, tôi nhìn những đứa trẻ chỉ vận cái quần cộc rách nát, da dẻ rám nắng, ngủ ngon lành. Tự nhiên tôi muốn đặt mình vào chỗ của chúng. Lòng thắt lại, không ngủ được nữa, tôi cùng với Hoàng Văn Tân, Trưởng phòng Chính sách - Thanh tra của Ban Dân tộc và Miền núi ra ngoài, buộc võng vào gốc cây, và nằm dưới trời đầy sương... Cuối năm 1960, người Rục vào hợp tác xã, gọi là Hợp tác xã nông nghiệp Hợp Hòa. Người được bầu làm chủ nhiệm đầu tiên, ông Cao Nhện. Lấy họ Cao làm họ, đấy là do yêu cầu pháp lý về điều tra dân số, chứ xưa nay người Rục không có họ. Cuộc sống cứ thế mà từng bước nhích dần. Chưa được bao lâu, Quảng Bình lại phải đương đầu với chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Quãng thời gian đó, một lần nữa người Rục rơi vào tình trạng bị quên lãng.

Nhà nghiên cứu Võ Xuân Trang, mà chúng tôi vẫn gọi là "nhà Rục học", sau những chuyến đi dài ngày, sống chung với bà con, đã cho tôi xem mấy cuốn sổ tay ghi chật cả hai bên lề. Ông say sưa nói về người Rục. Giữa thế giới văn minh, khi con người bay lên mặt trăng, lặn tận đáy đại dương... thì lại có một thế giới mà ở đó đàn ông vai đeo ống tên, tay cầm nỏ, đàn bà lưng đeo gùi, tóc dài búi lệch một bên, cứ thế lang thang trong rừng, đời này qua đời khác. Giữa một thế giới bùng nổ thông tin với báo chí, phát thanh, truyền hình, in-tơ-nét... lại có những người rất ít nói, ngôn ngữ đơn giản, dùng tiếng hú để gọi nhau khi cần thiết, chưa có ý niệm về ngày tháng, về thời gian, nên không ai biết tính tuổi của mình. Những con người ấy kiếm sống chủ yếu bằng săn bắt, hái lượm; thức ăn lấy bột từ ruột cây búng báng (còn gọi là bột nhúc) cùng thú rừng, cá ốc ở khe suối, thi thoảng mới có người phát rẫy gieo lúa hoặc ngô, rồi thả đấy mặc cho trời đất. Họ thích sống trong hang đá, một số gia đình lại dựng lều lợp bằng lá chuối, ít ngày sau lá úa vàng, lại bỏ đi nơi khác. Họ không ưa đổi chác, không muốn giao tiếp, làm quen với bất kỳ người lạ nào. Rồi họ dùng vỏ cây để đóng khố cho đàn ông, đắp váy cho đàn bà. Vỏ cây còn dùng lót nằm, làm chăn đắp trong những ngày giá rét. Dụng cụ sinh hoạt ngoài một số dao rừng cùn mòn, có lẽ đã qua nhiều thế hệ, còn dùng cả gỗ, đá. Cuộc sống du canh, du cư, săn bắt, hái lượm để kiếm kế sinh nhai mặc nhiên trở lại cùng họ.

Quãng năm 1986-1987, vùng Cú Nhái xuất hiện dịch bệnh. Sau này các nhà chuyên môn xác minh đó là bệnh sởi. Không ai biết để cấp cứu. Thấy nóng, sốt, bà con dội nước, ngâm mình trong khe suối. Thế là chỉ sau vài ngày, hàng chục người chết. Có gia đình không còn người nào sống sót. Thời điểm ấy, cho tới tháng 5-1991, người Rục còn 41 hộ, 212 khẩu. Do vậy, việc cứu sống người Rục, không để cho tộc người này bị hủy diệt là vấn đề nhức nhối không chỉ của người dân Quảng Bình mà trở thành mối quan tâm của cả nước, của nhiều tổ chức, cá nhân ở nước ngoài. Bởi người Rục có quyền như thế và phải được hưởng quyền như thế. Nhiều đoàn công tác đã lên bản Rục, nhiều tổ chức nhân đạo từ thiện gửi lương thực, thực phẩm, áo quần, chăn màn cho người Rục. Và người Rục được quy tụ về hai bản, Ón và Mò o - Ồ ồ.

Năm 1994, tôi đến Cú Nhái lần thứ hai. Trên tấm bảng gỗ của một trong hai phòng học nhỏ, tình cờ tôi đọc được dòng chữ "Thầy ơi lên dạy chúng em". Có lẽ thầy giáo về phép thăm nhà quá hạn, hoặc đang ốm đau, có việc đột xuất chưa kịp lên chăng? Dòng phấn trắng ám ảnh mãi trong tôi. Dòng phấn trắng cho tôi hay, người Rục đã từ bỏ lối sống biệt lập, muốn hòa nhập vào cộng đồng người Sách, người Nguồn, người Kinh. Trong ngôi nhà cột kèo xiêu vẹo, tôi từng đến thăm lần trước ở bản Mò o - Ồ ồ, giờ đã dựng lên những cột gỗ vuông vắn, chắc chắn trên nền đất bằng phẳng. Vẫn ông già ngồi chuốt từng mũi tên năm ấy, nhưng cái lưng giờ còng xuống như cánh cung, đang phân bua: "Bây chừ không ai sống trong hang đá. Người ốm gần chết cũng không vội đưa ra khỏi nhà nữa".

Vài năm sau, tôi có dịp trở lại với đồng bào Rục. Ông Cao Tiến Thuỳnh, nguyên trung úy Bộ đội biên phòng phục viên, làm Trưởng bản Mò o - Ồ ồ, cung cấp cho tôi những thông số mới. Hiện giờ đồng bào Rục đã có 74 hộ, với 376 khẩu. Dân số người Rục đã vượt  con số của năm 1991 là 164 người. Con số này nó giúp chúng ta hiểu, người Rục đã thoát khỏi nguy cơ tuyệt chủng. Con số như sinh ra từ nước mắt đồng loại. Tại bản Ón có 37 học sinh, bản Mò o - Ồ ồ có 46 học sinh theo học từ lớp 1 đến lớp 4. Từ năm 1996 đến nay, có 10 học sinh được đưa về học ở Trường phổ thông Dân tộc nội trú huyện Minh Hóa. Trạm xá Yên Hợp (tên Hợp tác xã Hợp Hòa cũ) nằm tại bản đồng bào người Sách, là trung tâm vùng Cú Nhái để điều trị bệnh tật cho người Rục. Số đông bà con đã biết trồng sắn, ngô, chuối ở vườn nhà. Bản Mò o - Ồ ồ còn có cả vườn ngô xanh tốt rộng tới ba ha do dự án đầu tư. Ðã có nhiều gia đình phát triển chăn nuôi bò, lợn, gà tăng nguồn thu nhập. Nhiều giếng nước sạch được xây cất. Thế nhưng người Rục vẫn thích lấy nước từ gốc cây chuối. Cây chuối rừng được cắt gần sát gốc, rồi nạo thành lòng chảo nhỏ, lớp bẹ chung quanh như thành giếng con con. Nước từ gốc cây ứa ra, có vị chát dùng nấu canh, kho cá, tạo nên hương vị rất lạ. Hoặc họ dùng nước từ các rục nước tự nhiên dưới bóng những cây búng báng, cây đoác xanh tươi. Với người Rục, rượu, thuốc lá và nước chè xanh là ba thứ không thể thiếu khi ngồi lại với nhau. Nếu có gia đình nào đó mời, khách có thể say sưa nằm lại đôi ba ngày, ra về ngủ quên dọc đường là chuyện thường. Người Rục thường kể cho nhau nghe nhiều truyện cổ tích, truyền thuyết, thần thoại ly kỳ. Truyền thuyết kể lại rằng, xưa kia người Rục từng bị trận đại hồng thủy chưa từng có. Nguyên nhân của đại hồng thủy là do con người sống buông thả, không nghe lời khuyên ngăn, thích gì làm nấy, nên Trời phạt. Ðất đai bị biển cả vùi tận đáy, chỉ còn lại núi đá. Thế là núi đá hè nhau đi lấp biển để có đất cho con người làm nhà và trồng tỉa. Truyền thuyết ấy chứng tỏ người Rục từ lâu vẫn mơ ước có đất đai để sinh sống và dựng nhà, dựng cửa.

Về nơi ở mới, nhưng thói quen du canh, du cư, sống hoang dã thỉnh thoảng vẫn quay về. Năm 2000, 11 hộ với 44 người lại bỏ bản vào vùng đất Pà Roòng và Lú Làn, sinh sống trong những túp lều lá dựng tạm, hoặc các hang đá bên khe suối. Lại "đói không lo, no không mừng". Lại một cuộc phối hợp vận động từ tỉnh đến huyện, về tận xã, từ Ban Dân tộc - Miền núi đến Ðồn Biên phòng. Lại gạo, lại tiền, lại đất, lại nhà. Và tháng 10-2001, bài toán cho người Rục đã tìm ra. Dự án mang tên: Bảo tồn và phát triển bền vững tộc người Rục xã Thượng Hóa, huyện Minh Hóa, với 32 tỷ đồng do Trung ương và tỉnh Quảng Bình phối hợp, đã ra đời. Hai bản Ón và Mò o - Ồ ồ được giữ nguyên, liên kết với bản Yên Hợp của người Sách thành thế chân kiềng, hôm sớm có nhau. Ðấy là một quyết sách chính xác, hợp lý và khoa học đối với  đồng bào dân tộc thiểu số.

Rồi hôm nay, chúng tôi đang đi trên con đường dài hơn 11 cây số, phẳng lỳ, rộng rãi nối từ thôn Phú Nhiên, cạnh đường Hồ Chí Minh vào tận Mò o - Ồ ồ. Vậy là ở đây, công thức: điện - đường - trường - trạm đã trở thành hiện thực. Người Rục đã có tất cả. 98 hộ với 434 nhân khẩu đều sống trong những ngôi nhà mới, trên nền đất năm xưa. Hầu như các gia đình đều có vô tuyến truyền hình, nhiều nhà dùng quạt điện. Rồi mấy chục chiếc xe máy rì rầm cả ngày lẫn đêm, là phương tiện vận chuyển, trao đổi hàng hóa tiện lợi. Thi thoảng lại thấy có người rút từ túi áo ra chiếc điện thoại di động nói chuyện với ai đó, chỉ khác đôi chút là nói "a-lô" thành "hà lồ"... Quả là sự thay đổi lớn không tưởng tượng nổi.

Chúng tôi vào Ðồn Biên phòng 585, giờ nằm gần sát biên giới, cách bản Mò o - Ồ ồ một cây số. Trưởng đồn Phạm Xuân Diệu, mời ở lại. Công việc của anh nặng hơn trước rất nhiều. Dự án hoàn tất, nhưng bảo vệ và phát huy nó đâu dễ dàng. Trần Hùng, bạn tôi, Trưởng ban Miền núi hiện giờ, một người nghiên cứu văn hóa có tiếng, cũng nói như thế. Ðặc tính chung của người Rục, luôn tỏ ra tự chủ, không muốn gây phiền hà đến người khác. Trừ những người nào đặc biệt tin cậy, họ mới kể về mình, về gốc gác gia đình, và hát những bài dân ca ca ngợi núi rừng, nơi họ sinh ra rồi lớn lên. Nhớ hôm theo chân một chiến sĩ biên phòng thăm "vườn ngô kết nghĩa", chợt nghe giọng hát khàn khàn: Kà tơm tá lêng - Kà tơm tá lêng - Mi xoong nhanh - Như quỷ xoong pành - Như tá lan xoong rùi - Như quỷ linh cuội troóc - Như toóc linh cuội dôộng,... người lính trẻ nói: "Cao Ên bản Mò o - Ồ ồ hát đấy. Cao Ên giọng khàn mà có duyên lắm" rồi anh dịch lại cho tôi hiểu: Cùng nhau ta ra rừng - Cùng nhau ta ra rừng - Anh với em - Như ong với hoa - Như đá lèn với cây nhúc - Như ăn mật ong trên ngọn suối - Như ăn bột nhúc trên ngọn khe... Bài hát nghe mông lung, day dứt. Tình yêu của người Rục vừa đằm thắm, vừa mạnh mẽ. Tôi nảy ra ý định thăm Cao Ên, mấy năm rồi chưa gặp lại. Cao Ên vắng nhà, vào rừng từ hôm qua. Tôi tạt qua nhà bên. Hình như tôi từng đến đây. Bên bếp lửa góc nhà, có lần tôi ngồi nhìn mấy đứa trẻ ngủ say sưa. Cuốn sách ngữ văn lớp 5 dắt ở phên nứa, chiếc xe bằng gỗ, thứ đồ chơi của lũ trẻ nằm dưới chân giường. Một phụ nữ vận chiếc váy mầu sim chín từ vườn sau đi vào. "Ồ, các chú mới tến! Ti hết, chưa ai viền. Hai tứa ti học". Tôi hỏi: "Bản mình trường đã ngói chưa?", chị trả lời: "Ngói hết, cả bên ón cũng thế".

Tôi cảm thấy lòng lâng lâng, vui vui. Vâng, người Rục đang âm thầm, dè dặt đặt từng dấu chân trên con đường từ nơi hoang dã đến với thế giới văn minh. Và người Rục đã thật sự được cứu sống.

Có thể bạn quan tâm