Cuộc đấu tranh vì xã hội tiến bộ ở Nepal

Cuộc đấu tranh vì xã hội tiến bộ ở Nepal

Thời kỳ quá độ, thời cơ mới

Từ khi thành lập nước đến tháng 5-2006, Nepal có thể chế quân chủ. Nước này bị thực dân Anh thống trị từ năm 1814 đến 1947. Năm 1951, chế độ quân chủ chuyên chế Nepal cho lập Chính phủ có Thủ tướng thay Quốc vương điều hành đất nước. Năm 1959, Quốc vương lần đầu tiên mở cuộc tuyển cử, đảng Quốc đại Nepal (NC) thành lập năm 1947, do ông B.P Koirala lãnh đạo đã giành thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử, lập Chính phủ dân cử đầu tiên trong lịch sử Nepal. Cuối năm 1960, Quốc vương Mahendra giải tán Chính phủ, bỏ tù Thủ tướng Koirala, cấm các đảng chính trị hoạt động, thay QH bằng "Hội đồng dân biểu không đảng phái" (Panchayat). Khi Quốc vương Mahendra mất (31-1-1972), ngôi báu được truyền lại cho con là Birendra tháng 2-1975.

Ðầu năm 1990, cao trào đấu tranh của quần chúng nhân dân chống lại chế độ quân chủ chuyên chế do NC và các đảng cộng sản Nepal (CPN) phát động đã buộc Quốc vương phải hủy bỏ lệnh cấm các chính đảng hoạt động, giải tán Panchayat, lập chính phủ lâm thời, ban hành Hiến pháp, lập nhà nước quân chủ lập hiến. Tháng 5-1991, lần đầu ở Nepal có tổng tuyển cử bầu QH một cách tự do với sự tham gia của nhiều đảng phái. NC thắng cử lập Chính phủ. Cuối năm 1994, diễn ra cuộc tổng tuyển cử trước hạn, đảng cộng sản Nepal Mác-xít-Lê-nin-nít thống nhất (CPN-UML) giành nhiều ghế nhất trong QH, lập Chính phủ cánh tả, sau chín tháng cầm quyền bị lật đổ do cuộc "đảo chính" của cánh hữu. Tình hình chính trị nội bộ Nepal từ sau cuộc tuyển cử này không ổn định. Năm 1996, CPN-M lãnh  đạo  Quân giải phóng nhân dân (PLA) tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân. Nepal rơi vào nội chiến.

Vụ thảm sát Hoàng gia Nepal tối 1-6-2001, Quốc vương Birendra, Hoàng hậu và một số thành viên khác bị sát hại. Quốc vương Gyanendra lên ngôi. Nepal càng chìm sâu vào khủng hoảng, năm chính phủ đã bị thay thế trong thời gian này. Ngày 1-2-2005, Quốc vương Gyanendra giải tán Chính phủ, lập Hội đồng Bộ trưởng do chính mình là Chủ tịch, ban bố tình trạng khẩn cấp, ngừng hiệu lực của Hiến pháp, quản thúc, bắt giam các thủ lĩnh và nhà hoạt động chính trị, đàn áp báo chí và những người bất đồng chính kiến.

Các đảng phái chính trị tập hợp thành lập Liên minh bảy đảng (SPA) phát động đấu tranh đòi dân chủ, chống lại cuộc "đảo chính của Hoàng gia-lập lại chế độ quân chủ chuyên chế".

Tháng 12-2005, Liên minh bảy đảng SPA đã ký thỏa thuận 12 điểm với CPN-M về việc CPN-M đồng ý chấm dứt nội chiến, tham gia tiến trình chính trị cùng các lực lượng dân chủ đấu tranh tiến tới xóa bỏ chế độ quân chủ, xây dựng nhà nước dân chủ cộng hòa. 

Từ tháng 4-2006, trước phong trào đấu tranh đòi dân chủ mạnh mẽ do Liên minh bảy đảng phát động, Quốc vương Gyanendra buộc phải từ bỏ quyền điều hành trực tiếp, tuyên bố khôi phục QH bị giải tán. Ngày 21-11-2006, Chính phủ  Nepal và lực lượng CPN-M đã ký Hiệp ước hòa bình toàn diện lịch sử, đánh dấu việc chấm dứt  hơn một thập niên nội chiến và chế độ phong kiến 238 năm.

CPN-M tham gia chính phủ lâm thời.  QHLT mới với 330 ghế được thành lập vào ngày 15-1-2007, trong đó NC giữ 85 ghế, CPN-UML và CPN-M mỗi bên giữ 83 ghế, số ghế còn lại chia cho các đảng khác. Ngày 1-4-2007, Chính phủ liên hiệp lâm thời (CPLHLT) mới của Nepal nhậm chức.

Ông P.Koirala, 85 tuổi, được QHLT, SPA và CPN-M bầu làm Thủ tướng lâm thời. CPLHLT gồm 22 bộ trưởng, 17 ghế của năm đảng trong SPA và năm ghế của CPN-M.  QHLT ấn định tổng tuyển cử bầu QH mới vào tháng 6-2007 (có thể hoãn lại do không đủ thời gian chuẩn bị). Những quyết định của QHLT nếu được QH bầu sau tuyển cử thông qua sẽ được luật hóa,  chính thức là những mốc lớn trong lịch sử nước này.

Nepal đã bước vào một thời kỳ mới, thời kỳ xây dựng và phát triển trong hòa bình, dân chủ;  tạo thời cơ mới, chín muồi cho các lực lượng chính trị tiến bộ, nhân dân lao động đấu tranh xây dựng một xã hội mới, tiến bộ hơn, tốt đẹp hơn.

Lực lượng cánh tả Nepal

Trong lịch sử cận đại và đương đại Nepal, những người cánh tả, trong đó nổi bật là những người cộng sản luôn là lực lượng chính trị quan trọng, tiên phong trong những cuộc đấu tranh.

Trong số 17 chính đảng được đăng ký hoạt động tại Nepal, có bảy đảng cộng sản. Trong tám chính đảng được coi là lớn nhất, có bốn đảng cộng sản gồm: CPN-UML; CPN-M; đảng cộng sản Nepal Trung tâm thống nhất (CPN-UCM); NWPP. Trong số chín đảng nhỏ có ba đảng cộng sản gồm: đảng cộng sản Nepal Mác-xít-Lê-nin-nít (CPN-ML); đảng cộng sản Nepal Thống nhất Mác-xít-Lê-nin-nít-Mao-ít (CPN-UMLM); đảng cộng sản Nepal Thống nhất Mác-xít (CPN-UM).

Bảy đảng cộng sản Nepal ngày nay đều có nguồn gốc từ CPN, do P.L.Sê-xơ-tha (1924-1978) thành lập  ngày 22-4-1949 tại Calcutta (Ấn Ðộ) để lãnh đạo nhân dân Nepal đấu tranh chống chế độ độc đoán Rana, chống phong kiến, đế quốc và kêu gọi thành lập một hệ thống dân chủ mới.  Cùng với NC, CPN đóng vai trò quan trọng phát động quần chúng trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, vì nền dân chủ, quyền sinh kế của nhân dân. Phong trào của các lực lượng tiến bộ Nepal lật đổ chế độ Rana năm 1951.

Năm 1954, Ðại hội bí mật lần thứ nhất tại Patan (Ấn Ðộ) ông  M.Adhikari được bầu làm Tổng Bí thư. Năm 1957, Ðại hội 2 tại Kakhmandu, K.J.Raiamahi được bầu làm Tổng Bí thư; tại đại hội này, CPN thông qua chương trình đấu tranh nghị trường. Ðầu năm 1961, tất cả các đảng phái chính trị ở Nepal bị cấm  sau cuộc đảo chính lập lại chế độ chuyên chế của Hoàng gia năm 1960. Chính quyền phát động một chiến dịch khủng bố chống CPN. CPN bị tổn thất nặng nề và nảy sinh bất đồng, chia rẽ thành các đảng khác nhau.

Hội nghị khẩn cấp BCH T.Ư đảng tại  Ða-ban-ga (Ấn Ðộ), CPN bị chia rẽ thành ba khối chính: khối ủng hộ đấu tranh lập lại chế độ quân chủ lập hiến (ông Raiamahi); khối đòi lập lại nghị viện bị giải tán bằng cách phát động phong trào rộng rãi của quần chúng nhân dân  (ông P.L.Sê-xơ-tha) và khối đấu tranh vì một nền dân chủ nhân dân (ông M.B.Singh). Khối thứ ba được nhiều đảng viên ủng hộ hơn. Trong quá trình đấu tranh cách mạng, trước những diễn biến mới  của tình hình trong và ngoài nước, những thử thách, khó khăn mới, CPN thường nảy sinh bất đồng, chia rẽ nội bộ thành các đảng cộng sản khác nhau. Ngoài ra, CPN còn bị ảnh hưởng của sự chia rẽ trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đã phân ly thành bảy đảng cộng sản hiện nay. Riêng CPN là mạch chính thống từ khi thành lập. Trong bảy đảng cộng sản, hai đảng là CPN-UML và CPN-M lớn nhất thu hút được nhiều sự chú ý với hai chương trình, sách lược và chiến lược hành động khác nhau.

CPN-UML thành lập ngày 6-1-1991, do hợp nhất  CPN (Mác-xít) và CPN (Mác-xít-Lê-nin-nít). CPN-UML đóng góp lớn cho Phong trào Nhân dân (PM) cùng với NC trong cuộc đấu tranh lập lại chế độ quân chủ lập hiến.  Ðại hội lần thứ nhất của CPN-UML tổ chức tại Kakhmandu tháng 1-1993, với khẩu hiệu: Phản đối chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa cơ hội, giương cao ngọn cờ sáng tạo chủ nghĩa Mác. Tại đại hội này, CPN-UML thông qua Cương lĩnh về nền dân chủ  của nhân dân (PMPD); Luận cương tối thiểu;  Ðiều lệ Ðảng; Chính sách cải cách ruộng đất; Cương lĩnh về Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; Về chế độ đẳng cấp; Về văn hóa và ngôn ngữ. PMPD trở thành nguyên tắc của cách mạng Nepal. Nó là sợi chỉ hồng xuyên suốt toàn bộ chương trình, mục tiêu, sách lược và chiến lược hành động của CPN-UML. PMPD của CPN-UML vạch ra đường lối cho thế kỷ 21 của Nepal, là thế kỷ giải phóng và thịnh vượng của nhân dân Nepal, là thế kỷ của Mặt trận cánh tả thống nhất (ULF) và các đảng cộng sản Nepal. 

Trong cuộc tuyển cử năm 1994, CPN UML giành nhiều ghế nhất trong số các đảng phái tham gia tranh cử,  88 trong 205 ghế của Hạ viện (NC được 83 ghế) và trở thành đảng lớn nhất trong QH. Tháng 12-1994, CPN UML thành lập Chính phủ thiểu số, Tổng Bí thư M.M.Adhikari làm Thủ tướng, M.K.Nepal (nay là Chủ tịch Ðảng) làm Bộ trưởng Ngoại giao. Tháng 8-1995, Chính phủ CPN-UML bị lật đổ do cuộc "đảo chính" của cánh hữu.

Tuy thời gian cầm quyền ngắn, nhưng với chương trình hành động tiến bộ, khoa học, những tấm gương của lãnh đạo và đảng viên CPN-UML đấu tranh vì lợi ích của nhân dân đã để lại dấu ấn không phai mờ trong tim của hàng triệu người lao động Nepal. Chính phủ cánh hữu đổ tháng 3-1997, CPN-UML cùng đảng Dân chủ Nepal (NDP), đảng Tiến bộ Nepal (NWP) thành lập Chính phủ liên hiệp (CPLH). Thủ tướng là người của NDP, CPN-UML giữ một số ghế bộ trưởng, trong đó có ghế Phó Thủ tướng. CPLH thực thi Chương trình hành động 20 điểm của CPN-UML  bảo vệ nhân dân và đất nước trước những ảnh hưởng tiêu cực của các đảng phái phi dân chủ để phát triển đất nước.

Liên minh cầm quyền CPN-UML, NDP, NWP giành thắng lợi lớn trong cuộc bầu cử Hội đồng địa phương (HÐÐP) cấp xã, quận và thành phố (Nepal không có đơn vị hành chính cấp tỉnh). Riêng CPN-UML giành 51,02% các ủy ban làng xã, 56% Hội đồng thành phố và 80% các Hội đồng quận. Giành 93.899 ghế trong tổng số 188.010 ghế HÐÐP trong cả nước. Trong cuộc tổng tuyển cử gần đây nhất (năm 1999), CPN-UML đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức cuộc tổng tuyển cử nhằm chấm dứt sự bất ổn về chính trị  từ sau năm 1995. CPN-UML đã giành 71 ghế sau NC 111 ghế. Ngày 15-3-2002, CPN (Mác-xít) tuyên bố  hợp nhất với CPN-UML.

Tương quan lực lượng chính trị trên chính trường Nepal  đang nghiêng hẳn về phía những người cộng sản và cánh tả ở cả QHLT và CPLT. Các tổ chức quần chúng của các Ðảng cộng sản ở Nepal được tổ chức và hoạt động tốt, phát triển rộng rãi trong nhân dân. Cử tri ủng hộ CPN-UML và CPN-M ở khắp nơi, từ thôn quê đến thành thị, đặc biệt là giới trẻ. Các đảng cộng sản ở nước này đang tiến hành vận động để thành lập một Liên minh cánh tả mới trong cuộc tuyển cử  sắp tới.

Có thể bạn quan tâm