Những kết quả bước đầu
Tiến sĩ Nguyễn Quang Duy, Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) dẫn chúng tôi đi thăm phòng thí nghiệm, rồi xắn quần ra các nhà lưới, nơi sản xuất thử các giống lúa và cây trồng khác do viện chọn tạo. Anh cho biết: Tuy còn hạn chế về thiết bị thí nghiệm và năng lực trình độ thiếu đồng đều nhưng thời gian qua, nhất là từ năm 2000 đến nay, nhờ việc ứng dụng công nghệ sinh học, bước đầu đơn vị đã tạo ra được một số giống cây lương thực và cây thực phẩm có chất lượng. Chưa có bước đột phá lớn song mấy năm gần đây các cán bộ khoa học đã sử dụng các công nghệ nuôi cấy bao phấn, thụ tinh nhân tạo, kích tạo đơn bội, đột biến gien... trong nghiên cứu, chọn tạo giống cây trồng, vật nuôi. Không kể các giống lúa M90, AYT77, P6, X19, CH5... được công nhận chính thức cách đây bảy, tám năm, nay vẫn được gieo trồng hàng trăm nghìn ha ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ, sau một thời gian khảo nghiệm, các giống lúa mới AC5, ÐB5, ÐB6, BM9855, BM9820 được công nhận giống quốc gia đang dần thay thế các giống lúa Q5, Khang Dân từng tồn tại nhiều năm ở phía bắc. Ðáng chú ý giống lúa AC5 là loại lúa thơm chất lượng cao, được lai tạo từ 10 - TgMS/C70/CR203 bằng công nghệ nuôi cấy bao phấn. Với ưu thế chống chịu sâu bệnh, thâm canh hai vụ trong năm, năng suất đạt 6 đến 7 tấn/ha/vụ, giống lúa AC5 đã và đang được bà con nông dân các tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh, Hà Nội, Nghệ An ưa chuộng. Khoảng mười năm trở lại đây, đội ngũ cán bộ khoa học của Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm cũng đã nghiên cứu, chọn tạo và nhân nhanh hơn 30 giống đậu, lạc. Trong đó, các giống lạc L05, L14, L18, MD9 có khả năng kháng A lát-tô-xin, héo xanh vi khuẩn, đạt năng suất hơn 40 tạ/ha, phẩm cấp hạt khá cao phục vụ cho xuất khẩu. Không ít giống đậu, và các tiến bộ kỹ thuật được chuyển giao về nông thôn đã góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng, mùa vụ cho hàng vạn hộ nông dân tại các tỉnh phía bắc, Tây Nguyên và Ðông Nam Bộ. PGS, TS Lê Huy Hàm, Viện trưởng Di truyền nông nghiệp chia sẻ: Hàng chục năm qua, ngoài việc tạo ra một số giống cà chua, hoa hồng và hoa ly ly bằng phương pháp nuôi cấy mô, đột biến, Trung tâm Công nghệ Sinh học thực vật của viện còn chuyển giao kỹ thuật trồng, chế biến nấm ăn và nấm dược liệu cho nhiều vùng nông thôn trong cả nước. Cùng với hoạt động nghiên cứu, chuyển giao công nghệ về nông thôn, trung tâm còn cung ứng 250 đến 300 tấn giống gốc, giống cấp 1 mỗi năm, hỗ trợ vốn, vật tư cho một số hộ nghèo ở Ninh Bình, Nam Ðịnh và chịu trách nhiệm bao tiêu sản phẩm hàng nghìn tấn nấm cho bà con nông dân. Vốn đầu tư không lớn, quy trình công nghệ nuôi trồng, bảo quản và chế biến không phức tạp, trong khi nguồn nguyên liệu rơm rạ, thân cây ngô sẵn có, sản xuất các loại nấm ăn (sò, mỡ, kim châm, đùi gà, mộc nhĩ) và nấm dược liệu đã và đang trở thành nghề mới ở hơn 40 tỉnh, thành phố trong cả nước. Riêng các huyện Nghĩa Hưng (Nam Ðịnh), Yên Khánh (Ninh Bình) đã có hàng trăm hộ thoát nghèo và vươn lên khấm khá với thu nhập từ 30 đến hơn 50 triệu đồng/năm từ sản xuất nấm. GS, TS Trần Duy Quý (nguyên Phó Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam) cho biết: Bước đầu chúng ta tiến hành lập bản đồ một số gien phục vụ cho công tác chọn tạo các giống lúa lai, gien kháng bệnh đạo ôn, rầy nâu, bạc lá ở lúa. Ðồng thời thử nghiệm cây chuyển gien ở ngô, bông, đậu tương, thông, xoan và sản xuất vắc-xin phòng, chống cúm A H5N1 ở gia cầm. Mặt khác, ứng dụng công nghệ sinh học, gần ba năm qua, các nhà khoa học cũng đã triển khai hơn 50 đề tài, dự án hoàn thiện hàng chục quy trình công nghệ sản xuất phân bón vi sinh, thuốc trừ sâu sinh học và các chế phẩm bảo vệ cây trồng, vật nuôi, xử lý ô nhiễm môi trường trong sản xuất và đời sống...
Những vướng mắc cần được tháo gỡ
So với các nước trên thế giới và khu vực, công nghệ sinh học là lĩnh vực khá mới mẻ ở nước ta. Từ năm 2000 trở lại đây, công nghệ sinh học trong nông nghiệp mới thật sự được quan tâm. Thủ tướng Chính phủ, tại Quyết định số 11/2006/QÐ-TTg (ngày 12-1-2006) phê duyệt "Chương trình trọng điểm phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, đến năm 2010 và tầm nhìn 2020". Chương trình xác định mục tiêu tạo ra các giống cây trồng, vật nuôi, chủng vi sinh vật, các chế phẩm công nghệ sinh học nông nghiệp mới, có năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao phục vụ tốt nhu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn... phát triển mạnh mẽ công nghệ sinh học hiện đại, trong đó tập trung vào công nghệ gien. Phấn đấu đến năm 2015, công nghệ sinh học nông nghiệp đóng góp từ 20 đến 30% tổng số đóng góp của khoa học - công nghệ vào sự gia tăng giá trị của ngành nông nghiệp...
Từ năm 2007, Chính phủ đã có sự quan tâm đầu tư cho lĩnh vực công nghệ sinh học trong nông nghiệp với nguồn vốn 100 tỷ đồng/năm. Song chúng ta mới làm được một số việc ban đầu như mua sắm trang thiết bị cho sáu phòng thí nghiệm trọng điểm, đào tạo, bồi dưỡng được một số ít cán bộ chuyên ngành, và triển khai được 54 đề tài, dự án phục vụ phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên do năng lực trình độ cán bộ của ta vừa thiếu, vừa yếu cho nên có năm không thực hiện đúng kế hoạch vốn đầu tư. Bởi vậy đến nay, chúng ta vẫn chưa phát triển được ngành công nghiệp sinh học dựa trên các kết quả nghiên cứu, chọn tạo giống cây trồng, vật nuôi, sản xuất phân bón và thuốc bảo vệ thực vật sinh học, mẫu chẩn đoán bệnh động thực vật với khối lượng lớn. Hằng năm Nhà nước vẫn phải dành một khoản ngoại tệ không nhỏ để nhập khẩu các loại giống cây, con của nước ngoài. Các hướng chính của công nghệ sinh học hiện đại là công nghệ gien, công nghệ tế bào, công nghệ vi sinh và En-dim. Ngoài các chế phẩm kiểm soát nấm bệnh trên cây bông và cà-phê, men ủ vi sinh sử dụng để sản xuất phân hữu cơ có thể làm ở quy mô công nghiệp; còn lại phần lớn đang nghiên cứu, ứng dụng trong phòng thí nghiệm. Lĩnh vực công nghệ tế bào, bước đầu sản xuất và cung ứng ra thị trường được hàng chục triệu cây giống bạch đàn, và một số giống hoa cúc, lan, ly ly, hồng môn.
Riêng công nghệ gien, mới dừng lại ở các số liệu về đa dạng sinh học của chín giống gà nội, ba chủng Agrobacterum phục vụ chuyển gien kháng sâu cho các giống cây ngô, xoan, thông. Một số đề tài nghiên cứu và ứng dụng cây chuyển gien cho lúa chịu hạn, kháng rầy nâu, ngô và đậu tương kháng sâu, thuốc diệt cỏ... đang có quy mô phòng thí nghiệm hoặc gửi đi khảo nghiệm quốc gia. Ðiều đó đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn của đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật nông nghiệp trong công tác đào tạo nguồn nhân lực chuyên ngành công nghệ sinh học có chất lượng, trong lựa chọn đề tài và dự án sát thực tế. Ðồng thời cơ quan chủ quản phối hợp các bộ, ngành có liên quan bổ sung và hoàn thiện hệ thống văn bản quản lý khoa học và công nghệ, tài chính nhằm khuyến khích các địa phương, cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực và các doanh nghiệp tham gia nghiên cứu, ứng dụng; chuyển giao và nhập khẩu các công nghệ mới có hiệu quả kinh tế trong lĩnh vực công nghệ sinh học. Có như vậy, đến năm 2015 và những năm tiếp theo, chúng ta mới phát triển mạnh công nghệ sinh học hiện đại phục vụ nông nghiệp.
TRUNG CẦN