Cống hiến xuất sắc của đồng chí Lê Duẩn trong cuộc chiến tranh cách mạng ở miền nam

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, theo đường lối cách mạng đúng đắn và sáng tạo của Ðảng ta, tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa, đã diễn ra trong sự kết hợp cách mạng và chiến tranh cách mạng ở miền nam với chiến tranh nhân dân bảo vệ chủ nghĩa xã hội ở miền bắc.

Ở miền nam Việt Nam, không phải chỉ là một cuộc chiến tranh mà là một cuộc cách mạng và chiến tranh cách mạng nhằm lật đổ ách thống trị thực dân mới và đánh bại chiến tranh xâm lược thực dân mới của đế quốc Mỹ. Ðó là một sự tổng hợp và phát triển lên đỉnh cao cả kinh nghiệm của khởi nghĩa và tổng khởi nghĩa tháng 8-1945 với chiến tranh nhân dân giải phóng dân tộc trong kháng chiến chống thực dân Pháp.

Trong nhiệm vụ lãnh đạo cuộc cách mạng và chiến tranh cách mạng ở miền nam, dưới sự lãnh đạo của tập thể BCH T.Ư Ðảng và Bộ Chính trị do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, đồng chí Bí thư thứ nhất Lê Duẩn đã góp phần xuất sắc, cả trong việc đề xuất, hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối cách mạng. Ðây là một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn trong tình hình rất phức tạp của đất nước và quốc tế khi khởi sự cũng như trong cả quá trình phát triển và kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Bài viết này tiếp cận vấn đề theo cách nêu lên cống hiến xuất sắc của Bí thư thứ nhất Lê Duẩn về cách mạng và chiến tranh cách mạng miền nam.

1- Chúng ta biết rằng, sau thắng lợi của kháng chiến chống thực dân Pháp, mặc dù đã có định hướng chính trị đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ sau khi Hiệp định Geneva được ký kết năm 1954, nhưng đã xuất hiện trong Ðảng và trong nhân dân một số biểu hiện hòa bình chủ nghĩa, mất cảnh giác với thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, tưởng rằng có thể tiến hành tổng tuyển cử trong vòng hai năm trên hai miền nam, bắc theo quy định của Hiệp định Geneva và "thi đua hòa bình" giữa hai miền để thống nhất nước nhà bằng phương pháp hòa bình. Như Ðảng đã tự phê bình tại Hội nghị T.Ư chín năm 1956: "... Bản chất cuộc đấu tranh thống nhất là một cuộc đấu tranh cách mạng, nhận thức đó không phải là một nhận thức mới, nhưng từ trước, T.Ư đã không đề ra một cách rõ rệt, không tiến hành giáo dục sâu rộng trong Ðảng và trong nhân dân... Vì không xác định rõ ràng cuộc đấu tranh thống nhất là một cuộc đấu tranh cách mạng, vì không tiến hành điều tra, nghiên cứu tình hình, cho nên trong hai năm qua, sự lãnh đạo của T.Ư đã có nhiều thiếu sót. Ngay đến đường lối đấu tranh thống nhất là như thế nào, mãi cho đến nay cũng chưa đề ra một cách toàn diện; nhiều vấn đề lý luận chưa được giải quyết như: tính chất xã hội miền nam là thế nào, nhiệm vụ, đối tượng, lực lượng cách mạng cụ thể là như thế nào, khả năng của phương pháp hòa bình là như thế nào"(1).

Trong khi đó, giữa lòng Sài Gòn bị tạm chiếm dưới chế độ thực dân mới của đế quốc Mỹ, đồng chí Lê Duẩn đã khởi thảo Ðề cương cách mạng miền nam. Trong hồi ký của mình nhân dịp kỷ niệm 95 năm Ngày sinh của đồng chí Lê Duẩn, đồng chí Võ Nguyên Giáp  viết: "Qua kinh nghiệm nhiều năm lăn lộn với cuộc đấu tranh của đồng bào miền nam, anh Ba đã trăn trở tìm con đường cho cách mạng. Ðề cương cách mạng miền nam do anh khởi thảo ra đời vào tháng 8-1956 nêu lên: miền nam chỉ có một con đường là vùng lên chống Mỹ - Diệm để cứu nước và tự cứu mình. Ðó là con đường cách mạng, ngoài ra không có con đường nào khác. Ðề cương đã góp phần hướng dẫn cho cán bộ, đảng viên và nhân dân tìm phương thức đấu tranh chống lại kẻ thù tàn bạo"(2). Theo đồng chí Võ Văn Kiệt, vốn tên tài liệu là Ðề cương cách mạng Việt Nam ở miền nam, và "trước khi ra bắc, anh Ba đã đưa những nội dung của tài liệu đó ra bàn bạc, thảo luận cả tháng trời trong lãnh đạo Xứ ủy mở rộng"(3).

Tuy nhiên, việc tiếp nhận Ðề cương cách mạng miền nam như là một khởi thảo để xây dựng, phát triển và hoàn thiện từng bước đường lối cách mạng miền nam, đã trải qua một quá trình thảo luận, đấu tranh nội bộ về chính trị-tư tưởng và lý luận kết hợp với tổng kết thực tiễn từng bước trên chiến trường.

Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của tập thể BCH T.Ư và Bộ Chính trị do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, Nghị quyết T.Ư 15, khóa II (1959) về đường lối cách mạng miền nam đã ra đời. "Ðây là sản phẩm trí tuệ của toàn Ðảng, của tập thể BCH T.Ư và Bộ Chính trị (khóa II) xuất phát từ những định hướng chiến lược đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ tháng 7-1954 khi hòa bình vừa mới được lập lại trên nửa nước, có sự trực tiếp chỉ đạo công phu của đồng chí Lê Duẩn, quyền Tổng Bí thư lúc bấy giờ cùng một số đồng chí trong Bộ Chính trị và Trung ương. Nghị quyết phản ánh đúng nguyện vọng của đồng bào, đồng chí cả nước, đặc biệt là khát vọng nóng bỏng của đồng bào, đồng chí ở miền nam nước ta lúc đó"(4).

Ðường lối cách mạng của Ðảng trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là ngọn đèn soi sáng cho cách mạng và chiến tranh cách mạng miền nam tiến lên giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác và đi đến thắng lợi hoàn toàn mà toàn dân và toàn quân ta tự hào kỷ niệm trọng thể năm nay.

2- Chúng ta đã nghiên cứu nhiều những vấn đề lý luận và thực tiễn trong lý luận cách mạng và chiến tranh cách mạng miền nam của Ðảng ta và những đóng góp của đồng chí Lê Duẩn. Dưới đây xin nêu một số thu nhận của cá nhân tôi qua thực tiễn và đặc biệt là qua nhiều buổi nói chuyện của đồng chí Bí thư thứ nhất dành cho Ban Biên tập Tạp chí Quân đội nhân dân (nay là Tạp chí Quốc phòng toàn dân) tháng 3-1967 theo chủ đề "Cách mạng, phương pháp cách mạng  và chiến tranh cách mạng miền nam". Nội dung được đề cập thể hiện một tầm cao tư duy quân sự cách mạng, gắn bó hữu cơ với tầm cao tư duy chính trị và lý luận cách mạng của những người đứng đầu trong tập thể những đồng chí lãnh đạo cao nhất của Ðảng ta; đối với tôi, như là một sự giải phóng mạnh về tư duy quân sự. Ðồng thời qua tổng kết, cũng xin mạnh dạn nêu lên một số ý kiến nghiên cứu thêm.

VẤN ĐỀ THỨ NHẤT

Cách mạng và chiến tranh cách mạng. Một thuật ngữ khoa học phản ánh đúng những gì đã diễn ra. Không chỉ là một cuộc chiến tranh mà trước hết là một cuộc cách mạng, do vậy không thể chỉ xem xét theo quan điểm của một cuộc chiến tranh. Cũng không phải là một cuộc cách mạng phát triển bình thường mà là một cuộc cách mạng phát triển dần thành chiến tranh cách mạng và tiếp tục trong chiến tranh, coi chiến tranh cách mạng là phương pháp cách mạng để đạt mục tiêu của cách mạng.

Nói cách mạng là phải xử lý các vấn đề như: tính chất chế độ thống trị của đế quốc Mỹ ở miền nam; mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu của cách mạng miền nam; tính chất, nhiệm vụ của cách mạng miền nam; đối tượng của cách mạng miền nam; lực lượng cách mạng và phương pháp cách mạng của cách mạng miền nam... Nói chiến tranh là phải xử lý những vấn đề như: mục đích chính trị của chiến tranh và nhiệm vụ quân sự; lực lượng vũ trang; phương thức tiến hành chiến tranh và nghệ thuật quân sự; hậu phương của chiến tranh...

Cách mạng và chiến tranh cách mạng thống nhất với nhau trong một cơ thể nhằm đạt tới mục tiêu của cách mạng, qua việc xác định mục đích chính trị của chiến tranh và nhiệm vụ quân sự. Ðương nhiên, cách mạng và chiến tranh cách mạng có những cái riêng, quy luật riêng, nhưng cả quy luật cách mạng và quy luật chiến tranh đều phát huy tác dụng trong sự tác động tổng hợp lẫn nhau thành quy luật của cách mạng và chiến tranh cách mạng. Trong đó, quy luật cách mạng là cơ sở cho sự vận động của quy luật chiến tranh và quy luật chiến tranh ngày càng chi phối và phát huy tác dụng quyết định trực tiếp cuối cùng.

VẤN ĐỀ THỨ HAI

So sánh lực lượng. Là so sánh cả về cách mạng và chiến tranh cách mạng đối với phản cách mạng  và chiến tranh xâm lược. Lực lượng cách mạng và lực lượng chiến tranh cách mạng có mối quan hệ thống nhất hữu cơ, tạo nên một hợp lực lớn gấp bội. Lực lượng quân sự, lực lượng chiến tranh cách mạng là biểu hiện quân sự của lực lượng cách mạng, hoạt động trong sự tác động tổng hợp của các lực lượng chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học... của cách mạng. Người chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam nhỏ hơn rất nhiều so với tên lính Mỹ, nhưng cao hơn tên lính Mỹ một cái đầu, bởi sau lưng anh chiến sĩ là cả một dân tộc với hàng nghìn năm lịch sử. Một sự so sánh lực lượng hình tượng của đồng chí Lê Duẩn giữa sức mạnh của cách mạng Việt Nam, cách mạng và chiến tranh cách mạng miền nam với chế độ thực dân mới và chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mỹ. Mc Namara thừa nhận Mỹ thua Việt Nam là do văn hóa (văn hóa là biểu hiện tập trung nhất, bền vững nhất của dân tộc, đương nhiên với những dấu ấn khác nhau của các giai cấp khác nhau đã đến và đi trong sự trường tồn của dân tộc).

Ðồng chí Lê Duẩn vạch rõ: Chế độ thực dân mới của Mỹ ở miền nam yếu từ gốc, thất bại từ đầu; Mỹ phải đánh vào nông dân miền nam là lực lượng Mỹ cần tranh thủ, mà nông dân miền nam, nông dân Việt Nam thì giàu lòng yêu nước và tinh thần cách mạng, lại đã nhận được ruộng đất từ chính quyền cách mạng ngay trong kháng chiến chống thực dân Pháp.

Theo quan điểm của đồng chí Lê Duẩn, so sánh lực lượng là trong sự vận động chứ không phải trong thế tĩnh, là sự tác động tổng hợp cả điều kiện vật chất khách quan và sự nỗ lực chủ quan của con người trong cuộc chiến đấu giữa hai bên nhằm những mục đích nhất định trong không gian và thời gian nhất định. Một đại đội của ta trụ vững được giữa Sài Gòn có giá trị như một sư đoàn ở Tây Nguyên, là một thí dụ.

Ðồng chí Lê Duẩn cho rằng ở miền nam, Mỹ không chỉ yếu về chính trị mà yếu cả về quân sự; khi cố gắng chiến tranh của Mỹ "kịch trần" thì Mỹ phải xuống thang và chấp nhận thất bại. Thất bại quân sự của Mỹ là không thể tránh khỏi và sự sụp đổ của chế độ thực dân mới của Mỹ ở miền nam là tất yếu.

VẤN ĐỀ THỨ BA

Phương pháp cách mạng, quy luật của cách mạng và chiến tranh cách mạng. Như đã nêu, đây không phải chỉ là một cuộc chiến tranh, do vậy không thể dừng lại ở một số nội dung, đương nhiên rất quan trọng, mang tính quy luật của chiến tranh nhân dân từng được khái quát trong đường lối quân sự của Ðảng như: quan điểm quân sự phục tùng chính trị; quan điểm chiến tranh nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân; kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy; kết hợp ba cách đánh: đánh du kích, đánh vận động, đánh trận địa; quán triệt các nguyên tắc chỉ đạo tác chiến...

Vậy đối với cách mạng và chiến tranh cách mạng miền nam thì thế nào?

Trong những buổi nói chuyện với Ban Biên tập Tạp chí Quân đội nhân dân tháng 3-1967 đã nêu ở trên, đồng chí Bí thư thứ nhất đã khái quát thành một công thức gồm bốn đoạn là: Khởi nghĩa từng phần, quân sự - chính trị kết hợp, ba vùng, tổng công kích, tổng khởi nghĩa. Ðương nhiên nhiều nội dung cụ thể đã được phát triển dần qua thực tiễn.

Tôi xin nói thêm và cũng là góp phần tổng kết vấn đề này.

a) Khởi nghĩa từng phần. Như đã diễn ra, đúng thời cơ và thể hiện một cách mở đầu sáng tạo của cách mạng miền nam (sau khi Mỹ lật Pháp, độc chiếm miền nam và biến miền nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ, không phải do ta khởi nghĩa nên Mỹ lấy cớ mà vào).

b) Quân sự - chính trị kết hợp. Từ khởi nghĩa thành chiến tranh cách mạng, kết hợp quân sự và chính trị trong chiến tranh. Tuy nhiên, chiến tranh càng phát triển, quy luật chiến tranh ngày càng chi phối và cuối cùng phát huy tác dụng quyết định trực tiếp. Do vậy, khi nêu lên sự kết hợp giữa quân sự và chính trị thì quân sự dần dần là chủ yếu và phát huy tác dụng quyết định trực tiếp. 

c) Ba vùng (nông thôn rừng núi, nông thôn đồng bằng và thành thị, nói gọn là nông thôn và thành thị). Ðột phá quan trọng và đúng đắn của đồng chí Lê Duẩn là làm rõ con đường, phương pháp của cách mạng miền nam không phải là "lấy nông thôn bao vây thành thị" mà là "kết hợp đánh địch cả ở nông thôn và thành thị mà đòn quyết định là ở thành thị" (vấn đề đòn quyết định ở thành thị đã được đồng chí Trường-Chinh nêu lên khi tổng kết Cuộc tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945). Ðồng chí Võ Nguyên Giáp, trong bài viết về đường lối quân sự của Ðảng năm 1969, cũng nhất trí với quan điểm này nhưng đã bổ sung là, qua thực tiễn, phải "đứng chân vững chắc ở nông thôn". Do vậy, đến nay nên tổng kết hoàn chỉnh là: "Ðứng chân vững chắc ở nông thôn, đánh địch ở cả nông thôn và thành thị và quyết định thắng lợi cuối cùng ở thành thị".

d) Tổng công kích, tổng khởi nghĩa. Tôi hiểu đây là mô hình "dứt điểm", thể hiện ý tưởng động viên mọi lực lượng quân sự và chính trị, kết hợp mọi hình thức đấu tranh của quần chúng nhân dân, đông đảo để giành thắng lợi quyết định. Ðã bốn lần đặt vấn đề. Thực tế như thế nào? Lần thứ nhất, năm 1961-1962, khi "chiến tranh đặc biệt" bắt đầu: Ðề ra tổng khởi nghĩa, tổng  công kích nhằm lật đổ chế độ Mỹ - Diệm, thiết lập một chính quyền độc lập và trung lập ở miền nam (Thư gửi anh Mười Cúc -tức Nguyễn Văn Linh và T.Ư Cục miền nam, 1961-1962, Lê Duẩn, Thư vào Nam, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1985, trang 31-67) (tổng công kích về quân sự được đặt lên trên). Nhưng "chiến tranh đặc biệt" tiếp tục phát triển. Lần thứ hai, năm 1965, khi "chiến tranh đặc biệt" sắp phá sản: Ðề ra tổng công kích, tổng khởi nghĩa, nhằm ngăn địch chuyển sang "chiến tranh cục bộ", cũng theo mục tiêu thiết lập một chính quyền độc lập và trung lập, yêu cầu Mỹ rút quân, quan hệ với các nước, chưa quan hệ với miền bắc vội... (Thư gửi anh Xuân - tức Nguyễn Chí Thanh, SÐD, trang 88). Nhưng Mỹ chuyển sang "chiến tranh cục bộ". Lần thứ ba, Tổng tiến công và nổi dậy Tết 1968, trong "chiến tranh cục bộ": Chủ trương tổng công kích, tổng khởi nghĩa (tổng công kích về quân sự đặt lên trước). Kết quả: chưa "dứt điểm" giành thắng lợi hoàn toàn nhưng đã đánh bại chiến lược "chiến tranh cục bộ", đập tan ý chí giành thắng lợi quân sự của Mỹ. Mỹ phải bắt đầu rút quân, ta giành thắng lợi quyết định. Lần thứ tư, năm 1974, trong "chiến tranh Việt Nam hóa": Vẫn đề ra tổng công kích, tổng khởi nghĩa, theo hai phương án phù hợp hai khả năng: một là, đánh đổ chính quyền Thiệu, thành lập chính phủ liên hiệp, rồi từng bước tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn; hai là, dùng lực lượng quân sự đánh đòn quyết định, đánh cho đến thắng lợi cuối cùng. Thực tế cho thấy, lúc này lực lượng quân sự của ta đã mạnh hơn hẳn địch, chiến lược tiến công của cách mạng và chiến tranh cách mạng miền nam đã thật sự phát triển thành chiến lược tiến công về quân sự của chiến tranh cách mạng, quy luật chiến tranh phát huy tác dụng quyết định cuối cùng. Do vậy, đã diễn ra Tổng tiến công về quân sự kết hợp với nổi dậy của quần chúng (không diễn ra Tổng khởi nghĩa); ta giành thắng lợi hoàn toàn, không trải qua hình thức nào đó của một chính phủ liên hiệp.

VẤN ĐỀ THỨ TƯ

Tư tưởng chiến lược tiến công và chiến lược tiến công. "Ðồng khởi" là cách mạng miền nam chuyển từ thế thủ, bảo toàn lực lượng, sang thế tiến công. Ðó là chiến lược tiến công của cách mạng bằng khởi nghĩa; tiếp đó, phát triển tiến công từ khởi nghĩa thành chiến tranh cách mạng, bởi "phòng ngự là con đường chết của khởi nghĩa" (Lenin); rồi tiếp tục khởi nghĩa trong chiến tranh, kết hợp chiến tranh với khởi nghĩa, trong đó quy luật chiến tranh ngày càng chi phối. Khởi nghĩa là "công nông binh liên hiệp" và thời cơ, đã không diễn ra. Quy luật chiến tranh là "đánh bại quân đội địch để áp đặt ý chí của mình" (Clao-dơ-vít)... Không phải ngay từ đầu đã là chiến lược tiến công của chiến tranh mà là chiến lược tiến công của cách mạng, phát triển từ nhỏ đến lớn, từ cục bộ đến toàn bộ (Lenin); từ chiến lược tiến công của cách mạng phát triển thành chiến lược tiến công của cách mạng và chiến tranh cách mạng, cách mạng tiến công về quân sự, kết hợp tiến công về quân sự với tiến công về chính trị và ngoại giao.

Tư tưởng chiến lược tiến công là tư tưởng chỉ đạo của cả cuộc cách mạng; có cả quán triệt tư tưởng cách mạng tiến công và thực hành cách mạng tiến công của cách mạng và chiến tranh cách mạng. Về quân sự, đương nhiên có tiến công, phản công và phòng ngự; trong chiến tranh cách mạng miền nam, tiến công và phản công là chính.

VẤN ĐỀ THỨ NĂM

Cách đánh. Là cách đánh của cách mạng và chiến tranh cách mạng, là các phương pháp cách mạng, phương thức tiến hành chiến tranh và nghệ thuật quân sự. Nhiều hình thức đấu tranh của các tầng lớp nhân dân, của đông đảo công nông và trí thức yêu nước ở thành thị và nông thôn (thành thị cũng có đấu tranh vũ trang, nông thôn cũng có đấu tranh chính trị). Kết hợp quân sự và chính trị, thực hành "ba mũi giáp công", phá ấp chiến lược, đội quân tóc dài... Tiến công và nổi dậy, cướp chính quyền và tiêu diệt địch, làm chủ và tiến công. Làm chủ mới có lực lượng tại chỗ đánh địch nhanh nhất ở khắp nơi. Khi bàn về sự cơ động nhanh của bộ đội biến lực ít thành nhiều, Elgels nói: Nếu trong thương mại thời gian là vàng, thì trong quân sự thời gian là lực lượng. Ở miền nam, lực lượng tại chỗ là thời gian đánh địch nhanh nhất, gắn liền với lực lượng của chủ lực cơ động nhanh trên các chiến trường trọng điểm (như Elgels nói).

Ðồng chí Lê Duẩn ví bộ máy quân sự của Mỹ ở miền nam như một cơ thể con người, què chân, cụt tay mà không chết nhưng có thể chết ngay nếu chảy máu não, đột tử vì nhồi máu cơ tim. Do vậy, phải có nhiều cách đánh, đánh đau, đánh hiểm, đánh bằng những quả đấm của chủ lực, đánh đầu não, đánh hậu cứ, đánh giao thông, đánh du kích, đánh chính quy, đánh đặc công... Ðó là sự sáng tạo kỳ diệu, vô tận của chiến sĩ, của quần chúng nhân dân. Tất nhiên trong chiến tranh, đòn quyết định phải là đòn của các quả đấm chủ lực.

VẤN ĐỀ THỨ SÁU

Ðiều khiển cuộc chiến, mở đầu và kết thúc. Cách mạng miền nam đã mở đầu bằng khởi nghĩa đúng thời cơ, "khi bọn thống trị không thể thống trị được như trước" (lê máy chém tàn sát đồng bào miền nam), "quần chúng nhân dân không thể  sống được nữa và đội tiền phong đã sẵn sàng". Một cách mở đầu độc đáo Việt Nam phù hợp yêu cầu đấu tranh cách mạng ở miền nam và yêu cầu của cách mạng thế giới. Nổi bật trong quá trình lãnh đạo và điều khiển cuộc chiến của T.Ư Ðảng, Bộ Chính trị và Quân ủy T.Ư là luôn luôn bám sát thực tiễn, bám sát tiến trình cuộc chiến đấu giữa ta và địch trên chiến trường trong sự phát triển của tình hình thế giới; sớm phát hiện những nhân tố mới nảy sinh ngay khi chúng chưa hình thành đầy đủ, vừa đưa cuộc chiến đấu của ta tiến lên vững chắc, vừa phát hiện những chiến thắng tiêu biểu báo hiệu những khả năng mới (Ấp Bắc, Vạn Tường, Phước Long, Buôn Ma Thuột...), để tiến hành những bước đột phá làm chuyển biến cục diện chiến lược. Cuối cùng, như đồng chí Lê Duẩn thường nói, trong "15 phút cuối cùng của trận đấu", kết thúc chiến tranh thắng lợi nhanh chóng và bất ngờ, kẻ địch không kịp trở tay và những thế lực khác muốn vào lấp chỗ trống, nhưng chưa sẵn sàng. Ðại thắng mùa xuân 1975 là như thế.

-----------

(1). Ðề cương Báo cáo của Bộ Chính trị tại Hội nghị T.Ư chín năm 1956. Văn kiện Ðảng, Toàn tập, tập 17, NXB CCQG, Hà Nội, 2002, trang 423, 424.

(2). Bài "Ðồng chí Lê Duẩn, Người cộng sản trung kiên, nhà lãnh đạo xuất sắc của cách mạng Việt Nam", trong sách "Lê Duẩn, một nhà lãnh đạo lỗi lạc, một tư duy sáng tạo lớn của cách mạng Việt Nam" (Hồi ký), NXB CCQG, Hà Nội, 2002, trang 36.

(3). Bài "Ðồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn, nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách mạng Việt Nam, người học trò xuất sắc của Bác Hồ", SÐD, trang 59.

(4). Kết luận của Ban Chấp hành T.Ư Ðảng khóa VIII, họp từ ngày 9-6 đến 18-6-1997.

Có thể bạn quan tâm