Cỏ lưỡi mèo mọc hoang khắp nơi, thường thấy ở các bãi trống, bờ ruộng, ven đường, ven rừng. Cây còn có những tên khác, như "cây thổi lửa", "cỏ lưỡi chó", "co tát nai" (dân tộc Thái); "nhả đản" (dân tộc Tày), sách Đông y gọi là "khổ địa cảm", "thiên giới thái", "thổ sài hồ", "thổ bồ công anh"... Tên khoa học là Elephantopus scarber L. họ cúc (Asteraceae).
Theo Đông y, cỏ lưỡi mèo có vị đắng, tính mát. Có tác dụng thanh nhiệt, lương huyết, giải độc, lợi tiểu, tiêu thũng... Dùng chữa cảm sốt, ho, họng sưng đau, đau mắt đỏ, chảy máu mũi, ỉa chảy, vàng da, viêm thận phù thũng, ung nhọt, rắn cắn.
- Liều dùng: 9-16g khô (hoặc 30-60g tươi) sắc lấy nước hoặc giã vắt lấy nước cốt uống. Dùng ngoài giã đắp hoặc nấu nước xông rửa.
- Kiêng kỵ: Người cơ thể suy nhược, phụ nữ có thai cần thận trọng khi sử dụng. Không dùng đối với bệnh thuộc "chứng hàn".
Một số bài thuốc có dùng cỏ lưỡi mèo:
- Chữa họng sưng đau, viêm amiđan: Dùng cỏ lưỡi mèo 10g khô, hãm với 300ml nước sôi trong nửa tiếng, chia ra uống trong ngày. Cũng có thể dùng lá tươi, nhai lẫn với chút muối, nuốt dần.
- Chữa môi lở sưng đau: Dùng lá cỏ lưỡi mèo tươi rửa sạch, thêm chút muối, giã nhỏ, vắt lấy nước bôi hoặc đắp vào chỗ đau.
- Chữa mụn nhọt, đinh râu: Dùng lá tươi giã với dấm hoặc mẻ đắp vào chỗ bị bệnh.
- Chữa mũi chảy máu lâu ngày không khỏi: Dùng cỏ lưỡi mèo tươi 20-30g, nấu với một lượng thích hợp gan lợn, ăn gan và uống nước thuốc, dùng liên tục 3-4 ngày.
- Chữa bí đái, đái nhỏ giọt niệu đạo nóng buốt: Dùng cỏ lưỡi mèo tươi 20-30g, sắc nước uống.
- Chữa đái đục, nước tiểu lẫn chất nhầy: Dùng cỏ lưỡi mèo, rễ bấn đỏ, rễ bấn trắng, rễ cỏ tranh, cỏ bấc, thịt ốc nhồi - mỗi thứ 15-20g, sắc nước uống.
- Chữa cước khí: Dùng toàn cỏ lưỡi mèo tươi 30-60g, đậu phụ 60-120g, hầm lên ăn.