ND - Nếu hôm ấy tôi không có mặt ở văn phòng nhà trường vào đúng lúc mọi người đang thu dọn đống hồ sơ lưu khổng lồ để loại bớt những giấy tờ bỏ đi thì quyển học bạ ấy đã nằm gọn trong đôi quang sọt của bà đồng nát rồi.
Do tò mò nghề nghiệp, tôi đã xin lại quyển học bạ ố vàng ấy.
Ðó là quyển học bạ từ khóa học 1979 - 1980, có lẽ vì sai sót nào đó mà nhà trường đã hủy bỏ. Nó "sống" được đến ngày hôm nay hẳn phải nhờ một xác suất quá hiếm hoi của may mắn ngẫu nhiên.
Chủ nhân của quyển học bạ là một cô học trò lúc ấy mới khoảng mười bốn, mười lăm tuổi. Tính đến hôm nay, "cô bé" ấy đã vào tuổi bốn mươi rồi.
Trên trang bìa của quyển học bạ nhiều chỗ đã nhòe nhưng còn hiện lên khá rõ mấy hàng chữ "Họ và tên: Nguyễn Thị Xuyến, xóm Khuôn Lình, xã Bằng La". Một cái tên bình thường như hàng triệu cái tên ghi trên những quyển học bạ khác.
Tôi từ từ lật giở quyển học bạ. Những trang đầu của hai năm học lớp năm và lớp sáu rất rõ ràng, sạch sẽ. Các điểm tổng kết bộ môn cùng lời phê của giáo viên chủ nhiệm đều nói lên đây là một học sinh học lực khá, đạo đức tốt. Chỉ khi đọc đến trang của năm học cuối cấp tôi mới vỡ lẽ vì sao người ta phải hủy quyển học bạ. Ô dành cho lời phê của giáo viên chủ nhiệm lớp bị hai nét mực đỏ, có lẽ là của hiệu trưởng gạch chéo. Ðiều này cho thấy hiệu trưởng đã hoàn toàn phủ nhận lời phê của thầy giáo chủ nhiệm lớp. Tôi đọc lời phê đã bị xóa bỏ kia: Học lực của em rất đáng khen. Lễ độ với thầy, chan hòa với bạn. Ðặc biệt em là người biết vượt lên hoàn cảnh để sống và học tập. Chỉ hơi buồn cuối năm học em để xảy ra một việc làm đáng tiếc. Nhưng rất mừng là em đã biết nhận ra lỗi lầm. Mong rằng em sẽ lấy đó làm bài học để không bao giờ lặp lại chuyện cũ. Cố lên em! Thầy luôn tin tưởng ở em!
Giáo viên chủ nhiệm lớp
Trần Hùng
Quả là một lời nhận xét mà chỉ ở những thầy giáo giỏi nghề và yêu quý học trò lắm mới có thể viết được. Tôi đọc đi đọc lại mấy chữ: Cố lên em! Thầy luôn tin tưởng ở em! Nó không còn là một lời phê nữa mà là những lời giục giã từ trong trái tim. Dường như người thầy muốn truyền hết nhiệt huyết từ tâm hồn mình sang tâm hồn cô học trò nhỏ đang chập chững vào đời. Vậy mà lời nhận xét đầy lương tâm và trách nhiệm ấy lại bị hai nét mực đỏ đầy quyền thế sổ toẹt. Và hình như để khẳng định sự phủ quyết của mình là xác đáng, hiệu trưởng đã ghi thêm mấy hàng chữ nguệch ngoạc ở phía dưới: Hủy những lời nhận xét hữu khuynh, thiếu kiên quyết trên của chủ nhiệm lớp! Sự thực Xuyến là một học sinh hư hỏng đã mắc tội ăn cắp một số tiền rất lớn của các bạn cùng lớp, bị nhà trường tước quyền thi tốt nghiệp. Thật kinh khủng! Tôi chưa hình dung được lỗi lầm của Xuyến đến mức nào nhưng những lời phán quyết khắc nghiệt của hiệu trưởng làm tôi ớn lạnh.
Tôi tìm gặp một cô giáo đã từng dạy lâu năm ở nhà trường để hỏi thêm. Phải khá lâu cô mới nhớ lại được chuyện cũ:
- À vâng! Mấy chục năm rồi còn gì. Ngày ấy sau khi xả nỗi bực dọc vào lời phê của thầy Trần Hùng, ông hiệu trưởng biết là không thể để vậy mà trả quyển học bạ cho học sinh được nên đã cho thay một quyển học bạ mới. Nào ngờ, thầy Hùng nhất định không chịu viết lại lời phê theo ý hiệu trưởng. Thế là hiệu trưởng đùng đùng ra lệnh cho thầy thư ký hội đồng làm thay việc đó. Sau việc làm vô nguyên tắc ấy, ông hiệu trưởng bị điều sang làm hiệu phó trường khác, nhưng thầy Hùng cũng bị chuyển sang dạy ở một trường miền núi xa nhất huyện. Hồi ấy, cấp trên thường coi đó là biện pháp hữu hiệu để giải quyết những vụ mà họ cho là mâu thuẫn nội bộ. Ồ! Mà sao anh lại có được quyển học bạ bỏ đi này?
Tôi nói vui một câu triết lý nửa mùa:
- Cái gì đáng sống thì không thể chết được cô giáo ạ!
*
* *
Buổi chiều, theo địa chỉ ghi ở quyển học bạ tôi tìm đến xóm Khuôn Lình, xã Bằng La.
Phải đi tới gần chục cây số đường mòn lầy bụi đất tôi mới tới được xóm Khuôn Lình. Tôi đứng lặng người nhìn cái xóm nhỏ hiu hắt, quá ư nghèo nàn. Những mái nhà lợp nứa, lợp cọ rách nát, thấp lè tè nằm rải rác thành từng chòm.
- Bác cho cháu hỏi thăm ở xóm này có cô Xuyến không ạ? Tôi hỏi khi gặp được một ông già chừng ngoài bảy mươi tuổi.
Ông già như sững lại:
- Anh hỏi... Xuyến... Xuyến... nào?
Tôi hơi lúng túng. Ngoài cái tên Nguyễn Thị Xuyến ghi trong quyển học bạ tôi còn biết gì hơn nữa đâu.
- Dạ... Xuyến... Nguyễn Thị Xuyến... đã từng học ở trường cấp hai xã bên ạ. Từ những năm 1979-1980...
Ông già như co người lại.
- Xuyến! Có phải cái Xuyến con gái tôi...? Những năm ấy cả xóm này chỉ có nó học cấp hai ở đó. Thế anh là...
Mặt ông già chợt sa sầm lại làm tôi hơi hoảng. Một hồi lâu sau ông mới trấn tĩnh, mời tôi vào nhà.
Ông già lập cập pha nước. Tay ông run run rót nước tràn cả ra miệng chén.
Ông già trân trối nhìn tôi như dò xét. Một lát, ông đứng dậy đến bên cái ban thờ nhỏ ở góc nhà, thắp mấy nén hương. Giọng ông đục như từ trong hang đá vẳng ra.
- Nó đấy!
Lúc này tôi mới nhìn lên ban thờ, thấy tấm ảnh của một phụ nữ chừng bốn mươi tuổi. Gương mặt đẹp nhưng toát ra một vẻ buồn u uẩn.
Tôi thốt lên:
- Thưa bác... chẳng lẽ đây là...
- Nó đấy! Tôi hỏi không phải, thế anh là thầy Hùng hay ông hiệu trưởng ấy? Nhưng sao bây giờ các ông mới đến. Nó mất hồi đầu năm rồi.
Tôi không dám nói năng gì. Chờ ông già lui ra, tôi tiến lại gần ban thờ, cũng thắp mấy nén hương, cúi đầu vái ba vái.
*
* *
Khi biết tôi không phải là giáo viên của trường, ông già đã kể cho nghe mọi chuyện:
- Sau khi nhận quyển học bạ và cái án kỷ luật không được thi tốt nghiệp, nó ốm lên ốm xuống cả tháng trời. Chiều nào nó cũng bắc cái ghế gỗ ra ngoài hiên, tay ôm quyển học bạ, mắt nhìn trân trân về phía cái trường cấp hai ấy. Tôi khuyên nó thua keo này bày keo khác, cố học lại để năm sau thi tiếp. Sức học khá như nó lo gì không đỗ. Vậy mà nó khóc nức nở bảo với tôi: "Không phải con sợ thi trượt, nhưng bây giờ con còn biết tin vào ai nữa". Cái con Xuyến nhà tôi tuy con nhà nông nhưng lại rất thích nói chữ như thế. Nó học giỏi văn lắm. Bao nhiêu truyện cũng ngốn hết. Nó nói vậy hình như là có ý trách gần, trách xa cái ông thầy Hùng, giáo viên chủ nhiệm nó thì phải. Trước đó, nó thường luôn miệng bảo với tôi thầy Hùng là thần tượng của nó. Tôi cũng chẳng hiểu thần tượng với thần tiên là sao nhưng nó quý thầy Hùng lắm. Nó nói sau này cũng đi học sư phạm để làm giáo viên như thầy Hùng. Vậy mà không hiểu sao ông Hùng lại phê vào quyển học bạ của nó những lời ác thế. Cứ như là kim đâm, dao cứa. Hàng tháng trời nó ôm quyển học bạ khóc như người điên ấy. Khổ!
- Cháu mạo muội xin được hỏi vì sao em Xuyến lại để xảy ra chuyện tiền nong gì đó vào cuối năm học ấy.
Ông già thở dài thiểu não:
- Chẳng giấu gì anh, năm ấy bà nhà tôi mắc bệnh nặng. Bác sĩ bảo phải chuyển bệnh viện tỉnh mới có thể chữa khỏi. Mà anh tính, lúc ấy gia đình tôi không có lấy một xu. Chẳng có cách nào hơn là đành để bà ấy nằm chờ chết. Tôi có ngờ đâu con cái Xuyến nhà tôi lại dám làm cái chuyện dại dột ấy. Ðúng vào ngày cả lớp mang tiền đi đóng học phí, nó đã lấy cắp cả đống tiền đem về đưa cho tôi. Biết là nó làm liều nhưng vì thương vợ thương con nên tôi cũng đành nhắm mắt cầm tiền để mang bà ấy đi bệnh viện tỉnh. Nhưng rồi bà ấy cũng không qua khỏi. Cái ngày bị nhà trường phát giác, cái Xuyến vừa khóc ròng vừa nói với tôi: "Thầy ơi, nếu biết u không khỏi bệnh thì con cũng không lấy tiền như thế". Ngày ấy nó khóc mà thổ cả ra máu anh ạ.
Khuôn mặt nhăn nheo của ông già càng như xám lại. Tôi biết là lòng ông đang bị cơn bão của quá khứ quay về hành hạ.
Tôi hỏi, như để giúp ông xua đi cơn ác mộng:
- Rồi sau, Xuyến có đi học lại không bác?
Ông già lắc đầu, nước mắt lại giàn giụa:
- Nói thế nào nó cũng không đi nữa. Mấy tháng sau, khi lũ học sinh bước vào năm học mới, nó đã trốn khỏi nhà để lại cho tôi một lá thư nói rằng chỉ khi nào có thật nhiều tiền nó mới trở về. Nó bảo quá nghèo khổ sẽ làm cho con người trở nên hèn hạ, nhục nhã cho nên nó quyết ra đi kiếm tiền để cái nghèo không hành hạ gia đình nữa. Tôi lo lắm nhưng thân cô thế cô chẳng biết làm thế nào để đi tìm nó. Tuy lớn người nhưng năm ấy nó mới chỉ mười mấy tuổi. Kể từ ngày ra đi, nó không quay về nhà một lần nào mà chỉ thỉnh thoảng viết một lá thư thăm tôi. Mấy năm sau, ngoài thư từ, tháng nào nó cũng gửi cho tôi một món tiền. Nhận tiền của nó mà lòng tôi cứ bồn chồn không yên. Người không nghề nghiệp như nó mà làm gì ra nhiều tiền vậy. Những lúc rỗi rãi tôi thường ngồi bấm đốt ngón tay để tính tuổi con. Hai mươi... hai nhăm... rồi... ba mươi. Chẳng mấy lúc đã ngót hai chục năm trôi qua. Tôi mỗi lúc một già yếu, lòng dạ thì cứ héo đi vì con. Thế rồi đùng một cái, năm năm về trước nó trở về nhà. Tôi ôm lấy nó khóc nhưng mừng vô kể. Thôi thì, dù no dù đói nhưng từ nay bố con lại được ở bên nhau. Nhưng rồi niềm vui ấy không được bao lâu thì nó ngã bệnh, nằm liệt giường, khắp người đầy mụn lở loét mà thuốc gì chữa cũng không khỏi. Những ngày cuối cùng, nó thều thào nói với tôi: "Thầy ơi, con mắc si đa rồi. Thầy có biết si đa là gì không? Thầy đừng chạy chữa nữa cho phí tiền. Thực lòng con cũng không muốn trở về nhà để làm khổ thầy. Nhưng con nghĩ, về đây con còn được nằm gần u, gần thầy, chứ chết ở nơi tha phương con sợ lắm. Thầy có hiểu cho con không?". Anh ơi, những lời nói ấy của nó, cả đời tôi cũng không sao quên được.
Ông già rũ người trên chiếc ghế ọp ẹp. Trái tim tôi như tê dại đi. Tôi không dám nhìn vào đôi mắt vô hồn đầy nước mắt của ông, vội quay ra cửa. Nắng tháng năm hắt lên những bờ râm bụt đang kỳ nở hoa, đỏ như máu.
Thật không ngờ tôi lại phải chứng kiến một câu chuyện buồn đến như vậy. Lòng tôi trĩu nặng. Lúc này các thầy giáo cũ của Xuyến đang ở nơi đâu? Liệu họ có thể hiểu được rằng những việc làm lầm lỗi của họ ngày ấy đã vô tình trở thành một bản án giết người. Dĩ nhiên, cái chết ấy là do sự dại dột, mất phương hướng của Xuyến gây nên. Nhưng thưa các thầy xin hỏi các thầy sẽ phải chịu bao nhiêu phần trăm trách nhiệm trước linh hồn của cô học trò bé nhỏ ngày xưa?
Tôi quay lại, vẫn thấy ông già ngồi khóc. Tôi có cảm giác như ông đang khóc thay cho cô con gái xấu số. Một lúc rất lâu sau ông đứng dậy, với tay lên ban thờ lấy xuống một quyển học bạ, đặt vào tay tôi:
- Trước lúc mất cháu bảo bây giờ không còn hận ai nữa, chỉ trách bản thân thôi. Cháu dặn tôi đặt quyển học bạ này lên ban thờ vì đó là gia tài tinh thần của nó. Tôi biết nó vẫn rất quý quyển học bạ. Sự thật, chỉ năm cuối cấp nó bị kỷ luật thôi, chứ hồi lớp năm, lớp sáu nó đều là học sinh khá và ngoan ngoãn.
Tôi lật từng trang quyển học bạ ông già vừa đưa. Quả đúng như lời cô giáo của nhà trường nói với tôi hồi sáng. Ô dành cho nhận xét cuối năm của giáo viên chủ nhiệm ở quyển học bạ đã được phê lại theo đúng ý của ông hiệu trưởng: Một học sinh hư hỏng. Ðã mắc tội ăn cắp một số tiền rất lớn, bị nhà trường kỷ luật tước quyền thi tốt nghiệp. Góc phải phía dưới là chữ ký và họ tên của thầy chủ nhiệm Trần Hùng. Nhìn kỹ nét chữ, tôi nhận ra ngay tất cả chỉ là trò giả danh. Ðó chính là lời phê mà ông hiệu trưởng đã lệnh cho ông thư ký hội đồng nhà trường phải thực hiện.
Tôi tìm trong cặp lấy ra quyển học bạ, ngậm ngùi nói với bố Xuyến:
- Thưa bác, đây mới chính là quyển học bạ chính thức của em Xuyến. Trong đó có lời phê thật sự của thầy Hùng. Chỉ đáng tiếc là Xuyến không hề hay biết gì về chuyện này.
Ông già cầm quyển học bạ, lẩm nhẩm đọc. Ông thõng tay để rơi quyển học bạ xuống đất, khẽ rên rỉ:
- Trời ơi... nếu thầy Hùng phê như thế này thì con tôi đã không bỏ nhà mà đi. Nó sẽ học lại. Nó sẽ làm giáo viên.
Lặng đi giây lát, ông già nhặt quyển học bạ rồi cứ ôm khư khư không muốn rời ra nữa.
Chờ một lúc lâu, tôi cầm lại quyển học bạ, nói với ông:
- Thưa bác, cháu xin được thay mặt các thầy, cô giáo trong nhà trường đặt quyển học bạ này lên ban thờ của Xuyến. Vì đó mới là quyển học bạ thật sự của em.
Tôi đứng lặng trước ban thờ, thầm cầu khấn hương hồn người đã khuất hãy tha thứ cho những lầm lạc của cõi người.
Lòng tôi nhẹ bớt, vì hiểu rằng, dù đã quá muộn, nhưng dẫu sao sự trả lại quyển học bạ cho Xuyến cũng đã như giải được một nỗi đau cho người còn sống và người đã khuất. Ở nơi suối vàng hẳn linh hồn Xuyến cũng phần nào được yên tĩnh.