Mới mấy tháng trước, tôi vừa về lại Xã Ia Krái, quê của anh hùng A Sanh, nơi xa nhất của huyện biên giới Ia Grai mà tôi từng đến.
A Sanh đã thành người thiên cổ sau khi sống một cách vinh quang ở cõi đời này 64 năm. Cuộc đời thăng trầm, cả vinh quang và cay đắng của người thủy binh bên dòng Pô Kô lịch sử ấy tôi đã có dịp trình bày trong một bài báo khác.
Bây giờ, Ia O, thêm hơn chục cây nữa, ngay ngã ba một đường ra biên giới, một đường lên thẳng huyện Sa Thầy - Kon Tum. Vùng sâu vùng xa, chợ không có, các "công ty hai sọt" hoạt động nhộn nhịp, phục vụ nhu cầu của cả dân chúng và các cơ quan, đồn biên phòng.
Những người này di chuyển hàng trăm cây số mỗi ngày trên xe máy. Trong hai chiếc sọt chất trên xe là nguyên một "siêu thị" với thượng vàng hạ cám. Có thể mỗi xe chỉ một người đàn ông hoặc một người đàn bà, nhưng thường là hai vợ chồng. Vợ ngồi vắt vẻo lênh khênh giữa hai chiếc sọt và sẽ là người rất đắc lực... đẩy trong những khi xe bị sa lầy, lao xuống hố, chết máy, xì hơi... "công ty" này đi khắp các làng "của mình" "phục vụ" hết hàng thì về. Khi ra cũng... đầy hàng, vì đồng bào ít khi có tiền mà thường là đổi những thứ "của nhà giồng được".
Mùa mưa, những chiếc xe này như những cục bùn di động. Lăn lê bò toài nhiều khi cả buổi mới qua được nửa cây số, còn mùa khô thì người trùm kín áo mưa và nhìn xe cùng người cứ lừ lừ đúng nghĩa một cây bụi, đỏ quạch...
Như mọi công ty nhà nước và quân đội khác, công ty 715 cũng có 31% công nhân là đồng bào dân tộc thiểu số. Người dân tộc thiểu số vào làm công nhân có nhiều thuận lợi nhưng cũng nhiều khó khăn. Ðồng bào chưa rời bỏ được phong tục và thói quen của mình, và cũng chưa quen với cách lao động công nghiệp. Thích nghỉ thì nghỉ, thích đi muộn là đi muộn. Nghề làm cao-su, phải ra vườn cây từ 2, 3 giờ sáng để cạo mủ. Nhưng bà con cứ đủng đỉnh tám, chín giờ mới ra vườn.
Làm cà-phê còn khổ hơn. Suốt ngày lăn lộn ngoài vườn. Bà con thì quen thả cây xuống là... xong. Chăn nuôi cũng... tự nó lớn như cái cách nuôi con lâu nay. Rồi cái nạn... đẻ nhiều.
Ðại tá Vũ Bá Kim, Phó giám đốc, Bí thư Ðảng ủy công ty cho rằng, tuy thế, mấy năm vừa qua, từ những bỡ ngỡ ban đầu, một thế hệ công nhân người dân tộc thiểu số đã hình thành. Ông giới thiệu cho chúng tôi anh Rơ Chăm Thinh, người vừa đạt giải Bàn tay vàng trong cuộc thi cạo mủ toàn binh đoàn, rất trẻ và đẹp trai, trắng trẻo như người Kinh. Anh này được Binh đoàn thưởng một chiếc xe máy, sau đó về lại được công ty thưởng thêm một tivi...
Rơ Chăm Thinh chính là một nhân tố để từ đó nhân lên thành phong trào rộng rãi. Ðối với bà con người dân tộc, không gì bằng "mắt thấy, tai nghe, tay sờ". Thinh ở rể và được... vợ bắt theo phong tục người Gia Rai. Hỏi anh tiền lương của cả hai vợ chồng - đều trên ba triệu một tháng - ai giữ, anh hồn nhiên: Vợ giữ chớ, mình đi đâu cần tiền vợ lại cho mà. Hỏi anh cần tiền làm gì? Anh bảo: đổ xăng thôi mà. Lâu lâu lại mua cho bố mẹ bao gạo. Bên vợ Thinh còn bố mẹ vợ và các em. Không bà con dòng họ mà cả làng Thinh đều tự hào về anh, coi anh như một tấm gương để noi theo, để được thảnh thơi, được sướng như anh.
Bữa cơm chiều của lính văn phòng công ty sinh động hẳn lên khi có thêm một bóng hồng là vợ của thượng tá Phan Văn Vịnh, chủ nhiệm chính trị, lên thăm chồng nhân mấy ngày nghỉ lễ. Chị là kế toán một cơ quan ở tận Ðac Pơ, dẫn theo con gái, lặn lội đi ba chặng cả xe ô-tô và xe ôm, vượt gần trăm cây số lên đây. Khổ thân, thời bình mà có khác gì thời chiến đâu. Tất nhiên là các sĩ quan vui tính "tán" về những gì sẽ xảy ra vào đêm nay. Một đại tá còn "xung phong" rước cháu bé về phòng mình ngủ. Anh chị có hai cháu. Vẫn ở nhà tập thể cơ quan vợ tại Ðác Pơ. Cháu trai lớn học lớp tám ở nhà trông nhà.
Có khách nhưng chợ xa cho nên bữa ăn cũng chỉ thêm mấy chai bia, còn vẫn đạm bạc rau cải xào, trứng luộc, cá cơm kho khô... Ðại tá giám đốc công ty quyết định chiều mai ngả một con cầy đãi khách sau khi cẩn thận hỏi xem có ai không xơi được món quốc hồn quốc túy này không. Cũng không hẳn công ty không lập nổi một cái chợ. Nhưng có những điều phải tuân theo quy luật. Rất nhiều nơi bỏ tiền tỉ ra xây chợ xong bỏ không, trong khi những cái chợ xập xệ tự phát lại tấp nập.
Có thể phải dăm năm nữa, nơi đây mới có chợ khi mà cái ngã ba ngoài cổng kia trở thành thị tứ. ở chỗ ấy bây giờ là một cái barrier của bộ đội biên phòng, mấy quán cà-phê lèo tèo khách.
Buổi chiều chúng tôi ngồi uống cà-phê, thấy dăm ba cặp vợ chồng áo thun quần sooc trông rất chuyên nghiệp chở nhau vào trụ sở công ty chơi cầu lông. Thì ra công ty vừa làm một cái nhà thể thao, trong có sân cầu lông, bàn bi-a, bóng bàn... quả thật, nếu hết giờ hành chính mà không chơi thể thao thì không biết làm gì ở đây. Và vì thế tôi thấy ai cũng nghiện chơi cầu lông và chơi khá giỏi. Chiều biên giới miên man trong mắt khách lạ, còn bản thân người ở đấy, ai cũng hối hả với công việc của mình...
Ðến đây mới hiểu câu "nước sông công lính" theo nghĩa lãng phí và "mạnh về gạo, bạo về tiền" là một khái niệm hết sức sai lầm. Công ty hoạt động như một doanh nghiệp nhưng lại không được cấp vốn ban đầu. Tất cả phải đi vay, mà vay ở ngân hàng thương mại, không được ưu đãi.
Công ty là một "con nợ" thường xuyên của Ngân hàng Ðầu tư và Phát triển chi nhánh Gia Lai. Có năm 26 tết, đại tá giám đốc Trần Quang Thống vẫn còn "tả xung hữu đột" để vừa... vay nợ lại vừa trả nợ.
Tôi dốt về kinh tế, nhưng có nghe ai đó nói rằng: Một doanh nghiệp nợ nhiều là doanh nghiệp... ăn nên làm ra. Cứ nghiệm bản thân, nợ ai vài trăm bạc là canh cánh trả cho xong để ăn ngon ngủ kỹ, để thanh thản tâm hồn thì hiểu tâm trạng của anh giám đốc nợ tiền tỉ ở ngân hàng, dẫu là nợ để "ăn nên làm ra" nó như thế nào.
Lo công ăn việc làm thu nhập đời sống mọi mặt cho một ngàn năm trăm hai mươi con người ở một nơi mà gần như mọi cái đều mới bắt đầu rõ ràng là không dễ dàng gì rồi. Không chỉ thế, công ty còn một trách nhiệm rất lớn là đảm bảo quốc phòng - an ninh trên địa bàn phên dậu của Tổ quốc.
Với hai thứ cây chính là cà-phê và cao-su, công ty đã góp phần làm xanh mát cả một vùng biên giới khô cằn nắng nóng. Ðiều quan trọng là, một lượng lớn bà con dân tộc địa phương vào làm công nhân công ty, một mặt là có một khoản thu nhập cao, ổn định, mặt khác tiếp thu được những cái mới, tác phong công nghiệp, cách sống... mang về áp dụng vào đời sống buôn làng, trở thành những nhân tố mới để bà con dân làng học tập.
Thử tính xem, nếu cả hai vợ chồng cùng làm công nhân, thu nhập lương bình quân là ba triệu đồng tháng, chưa kể thu nhập từ kinh tế hộ, mỗi nhà cũng có vài ba héc-ta cà-phê hoặc mì, vài dăm bảy con bò... ở tại vùng nông thôn này thì rõ ràng đây là khoản thu nhập không nhỏ, nếu biết chi tiêu có thể để dành tích lũy nữa, bởi mức sống chung ở đây mới chỉ vài ba trăm nghìn đồng người tháng.
Một yếu tố tích cực nữa là công ty tạo ra một bộ mặt mới, một khu tiểu đô thị cho vùng sâu vùng xa này với một diện mạo văn hóa xã hội mới mẻ, tiến bộ. Tôi đã tiếp xúc với những gia đình công nhân từ ngoài bắc vào. Họ đều đã được cấp đất làm nhà và đang làm giàu trên mảnh đất này. Còn đối với công nhân là người dân tộc thiểu số thì rõ ràng đã có những thay đổi rất lớn so với những người không phải là công nhân.