Chuyện người bắt dơi

"Tôi theo lão vào trong hang. Cơ man nào là dơi, chúng bay tứ tung, kêu lên những tiếng rùng rợn. Mùi hôi bốc lên nồng nặc. Ðược cái trong hang lại rất mát mẻ. Lão cười hề hề bảo: "Cái hang này là của trời cho đấy, năm ấy mà không có thịt dơi chắc chẳng sống được đến giờ đâu cô ạ ...".

Trời mùa hè, nóng như thiêu như đốt, vất vả lắm chúng tôi mới leo lên được ngọn núi Giám (địa phận thuộc Xuân Thành, Yên Thành) để vào nhà lão Trung. Lão là người nổi tiếng về bắt dơi ở Yên Thành.

Khi trước mặt là một mầu xanh mờ mờ, lóng lánh như có ai đốt lửa thì một ngôi nhà bé xíu hiện ra.

Anh bạn đi cùng tôi bảo: "Nhà lão Trung đấy, cô cứ vào đi, tôi về".

Nói rồi anh sửa lại chiếc nón lụp xụp trên đầu, cúi cổ đi thẳng. Tôi hoảng hốt gọi với theo:

- Anh làm ơn đi cùng tôi vào nhà, nhỡ lão mà không đón tiếp thì ...

- Cứ thế mà vào, lão Trung dễ tính lắm, cứ bảo là khách mua thịt dơi, lão tiếp ngay - Anh bạn ngắt lời tôi.

Còn lại một mình nơi chốn vắng lặng tôi bắt đầu cảm thấy rợn rợn. Trước mặt tôi là một khoảng rộng cây cối um tùm, một vài chỗ cây vọt bị cháy vì nắng, đỏ quạch lại. Tiếng tu hú kêu từng hồi thê thiết.

Buổi trưa, ở chốn này không một bóng người. Một vài chỗ trống mọc lên những nghĩa địa với vài ba chục ngôi mộ nhỏ to khác nhau.

Người ta bảo ở đây người quá cố của mỗi dòng họ được quy tụ về một nghĩa địa được phân cách bởi hàng rào nhỏ.

Cũng có khi những ngôi mộ nằm rải rác trên đường lên núi, năm tháng mưa gió, không tên, không tuổi. Tôi bắt gặp trên đường lên đây những ngôi mộ to, bao bọc bởi những viên đá cuội đen. Những viên đá được sắp xếp không cầu kỳ, nằm rìa ngoài nhưng cũng có thể bao bọc được quanh ngôi mộ.

Anh nông dân dẫn đường cho tôi bảo đó là cách người ta làm phúc mỗi lần đi qua những ngôi mộ này.

- Nghĩa là sao ? Tôi thắc mắc.

- Thì đắp cho họ một viên đá, thế thôi. Chiến tranh mà, cũng chẳng biết quê quán đâu mà tìm - Anh lầm bầm trong miệng.

Quả thật sống một mình ở đây không phải là điều đơn giản. Tôi đứng tần ngần một hồi nhìn chung quanh. Chợt có tiếng chó sủa ăng ẳng, tôi giật mình gọi to: - Cụ ơi, cụ ...

Một ông già gầy nhom, bận một chiếc quần đùi mận chín bước ra. Ông lão nhìn tôi dò xét: - Vào đây làm gì cả trưa thế này? Mua thịt dơi à?

- Dạ vâng ạ!

Ông lão nở nụ cười hiền hậu, chạy ra sân kéo tôi vào nhà. Lão nheo nheo đôi mắt, lắc lắc tay tôi, làm cử chỉ điệu bộ như thể người quen lâu ngày gặp nhau. Rồi lão ấn tôi ngồi xuống chiếc ghế cũ kỹ, rót một chén nước chè vằng, giục tôi uống cho mát.

 
Dơi ngủ từng bầy trên cây.
   

Lão bảo tôi cứ ngồi yên đấy để lão đi lấy đồ nghề. Tôi vâng vâng dạ dạ, đợi lúc lão xuống bếp, mới nhẹ nhàng mở ba-lô lấy chiếc máy ảnh du lịch ra, hy vọng khi đi cùng lão sẽ chụp được một vài kiểu ảnh. Tôi nhét nó vào túi áo khoác nắng, cầm thêm một cây bút và tờ giấy. Chợt có tiếng lão phía sau: - Cô ngồi chơi uống nước cho lại sức, tôi đi một loáng là về ngay thôi.

Tôi hoảng hốt chạy ra sân: - Cụ ... Cụ ... cho con đi theo được không ạ!

Lão nhìn tôi từ đầu đến chân, chăm chăm vào cái cục lộm cộm trước ngực tôi. Lão cười: - Nhà báo hả?

- Dạ vâng! Tôi thú nhận.

Lão không nói gì, lặng lẽ cầm chiếc sào có gắn một tấm lưới nho nhỏ và một chiếc túi vải đi trước. Tôi lặng lẽ theo sau, không ngớt lo sợ.

Ði được một quãng, lão rẽ vào con đường mòn giữa núi. Lão cứ mặc cái lưng trần phơi ra giữa nắng, cắm cúi đi. Mồ hôi ướt đẫm cả lưng, tôi cố hết sức mới theo kịp lão. Buổi trưa, tất cả đều vắng lặng, chỉ có tiếng tu hú vẫn đều đều vọng lại.

Suốt một quãng đường dài mà lão chẳng dừng chân tí nào cả. Ðôi bàn chân to bè, đen đúa hình như đã chai lại, không có cảm giác trước những viên đá cuội nằm lăn lóc trên đường đi. Thỉnh thoảng lão ngoái lại phía sau dè chừng tôi, hình như sợ tôi lạc đường. Ðến trước một cây dâu da to, lão vạch mấy dây chìu quấn trước nó rồi tiến  vào phía trong.

Nghe người làng bảo đây là một hang động, nơi lão Trung thường vào bắt dơi làm thịt để bán. Tôi theo lão vào trong hang. Cơ man nào là dơi, chúng bay tứ tung, kêu lên những tiếng rùng rợn. Ðược cái, trong hang lại rất mát mẻ. Lão quay lại cười hề hề bảo: - "Cái hang này là của trời cho đấy, năm ấy mà không có thịt dơi, chắc chẳng sống được đến giờ đâu cô ạ".

Như lời lão Trung kể thì năm Ất Dậu 1945, khi dân ta đang chịu cái đói hoành hành thì gia đình lão đã ở trong núi này rồi.

Vùng núi này trước kia rậm rạp lắm, lại có cả cọp nữa, thỉnh thoảng chúng vẫn vào làng phá phách. Người chết phải xây lăng thì cọp mới không thể bới lên được. Hiện giờ giữa cánh đồng làng Mới (xã Bắc Thành, Yên Thành) vẫn còn một cái lăng to, đen lại vì mưa và rêu mốc của năm tháng.

Có năm làng bắt được cọp đen về làm thịt, vứt lông vào lũy tre trước làng. Ai ngờ sinh ra dịch sâu róm, chúng hành cho một năm, cây cối xác xơ, dân tiêu điều tưởng không qua khỏi nạn.

Có người bỏ làng đi nơi khác, cũng có người cố bám trụ ở lại. Khi trong làng cây cối trọc trơ trọc lụi hết thì cũng là lúc lũ sâu kéo nhau đi đâu hết. Làng lâm vào cảnh khốn cùng.

Lúc đó, cha lão Trung là một tay săn dơi rất giỏi, cứ sáng sáng lão theo cha vào hang bắt dơi. Cha đi trước, con theo sau cầm túi. Hễ cha bắt được con nào thì bỏ vào túi mang về nhà làm thịt.

Hôm nào được nhiều hai cha con đem ra chợ bán lấy tiền đổi gạo. Năm ấy làng đói, cũng có khi người ta chẳng có gì đổi thịt dơi, có người chìa tay xin. Có người láo lếu hơn còn cướp của cha con lão.

Thương người, mà nghĩ cái hang cũng không phải của riêng mình nên thỉnh thoảng cha con lão vẫn làm thịt dơi phân phát cho những người trong làng. Có vài người định học nghề bắt dơi của cha con lão nhưng hầu hết đều bị lũ dơi cắn cho chảy cả máu tươi. Nhẹ thì bôi lá rừng thôi, nhưng cũng có người phát sốt, nằm li bì mấy ngày. Họ cất công vào núi xin cha lão Trung dạy cho cách bắt dơi, nhưng chỉ vài người biết bắt. Sau đó họ cũng bỏ nghề dần.

Rồi nổ ra cuộc khởi nghĩa giành chính quyền, có cơm, có gạo ăn người ta cũng quên ý định đi bắt dơi. Chỉ có cha con lão Trung là ở mãi trong núi, làm bạn với núi rừng  và  món  thịt  dơi.

Có thể bạn quan tâm