Đây là kết quả đấu tranh kiên trì bền bỉ và khôn khéo của Việt Nam trên bàn đàm phán cũng như sự chuẩn bị kỹ càng về cơ sở vật chất, trang thiết bị, con người trong suốt một thời gian dài. Sự kiện cũng khẳng định đầy đủ năng lực, chủ quyền của Nhà nước ta trong việc quản lý vùng trời thiêng liêng của Tổ quốc.
“Trận chiến” trên bàn đàm phán
Chiều 30/8, Tổng công ty Quản lý bay Việt Nam (VATM) đã tổ chức chương trình tọa đàm “Vùng trời của chúng ta” để gặp gỡ, giao lưu với một số cán bộ từng tham gia đoàn đàm phán giành lại quyền điều hành FIR Hồ Chí Minh tại Thái Lan 30 năm trước.
Vùng thông báo bay (FIR - Flight Information Region) là vùng trời có kích thước xác định mà ICAO giao cho các quốc gia thành viên chịu trách nhiệm trước cộng đồng hàng không dân dụng quốc tế về cung cấp các dịch vụ thông báo bay và báo động. Ranh giới FIR được xác định trên cơ sở thoả thuận giữa các quốc gia liên quan tại các hội nghị không vận khu vực châu Á-Thái Bình Dương (RAN) và do Hội đồng ICAO phê chuẩn.
Nguyên tắc phân định các FIR của ICAO nhằm bảo đảm các hoạt động bay được điều hành an toàn, điều hòa và hiệu quả, thuần túy xuất phát từ ý nghĩa kỹ thuật, không liên quan chủ quyền lãnh thổ. FIR có thể bao gồm vùng trời chủ quyền của mỗi quốc gia và các vùng trời không thuộc chủ quyền được phân công.
FIR Hà Nội và FIR Sài Gòn trước năm 1975. |
Từ trước năm 1975, FIR Hồ Chí Minh (gọi là FIR Sài Gòn) được thiết lập trong Hội nghị không vận Trung Đông-Đông Nam tại Rô-ma (năm 1959), gồm cả vùng trời chủ quyền thuộc chủ quyền quốc gia và vùng trời trên công hải quốc tế ở biển Đông. Đến năm 1973, tại Hội nghị RAN-I họp tại Honolulu, FIR Sài Gòn có điều chỉnh mở rộng xuống phía nam và duy trì cho đến ngày 28/4/1975 với diện tích khoảng 918.000 km2.
Sau khi chính quyền Sài Gòn sụp đổ, trước áp lực tranh giành FIR Sài Gòn, tại Hội nghị RAN-II năm 1983, một số nước trong khu vực có ý đồ đòi xóa bỏ kế hoạch lâm thời của ICAO về phân chia các vùng trách nhiệm tạm thời trên Biển Đông thuộc FIR Sài Gòn cũ, đồng thời hợp thức hóa việc giao chính thức các vùng trách nhiệm tạm thời trên cho các nước đó quản lý. Có quốc gia đề xuất sáp nhập một phần FIR Hà Nội và phần lớn FIR Hồ Chí Minh vào Vùng thông báo bay của họ, điều này dẫn đến phạm vi vùng trời công hải quốc tế trên Biển Đông của FIR Hồ Chí Minh sẽ bị thu hẹp lại phần lớn.
Các thành viên đoàn Việt Nam tại Hội nghị RAN-III. |
Ngày 19/4/1993, ICAO mở Hội nghị RAN-III tại Bangkok (Thái Lan), họp liên tục trong 19 ngày. Ðây được coi là một trong những cuộc đấu tranh ngoại giao cam go nhất trong lịch sử ngành hàng không Việt Nam.
“Ðoàn Việt Nam lúc đó gồm nhiều chuyên gia dày dạn kinh nghiệm chuyên môn và ngoại giao, do Cục trưởng Hàng không dân dụng Nguyễn Hồng Nhị làm trưởng đoàn. Trước khi sang Bangkok, các thành viên trong đoàn đều xác định bước vào một cuộc chiến cân não thật sự, mục tiêu cao nhất là giành lại quyền điều hành FIR Hồ Chí Minh, khẳng định độc lập, chủ quyền của đất nước”, ông Phạm Việt Dũng, nguyên Chủ tịch Hội đồng thành viên VATM, thời diểm đó là chuyên viên Ban Quan hệ quốc tế (Cục Hàng không dân dụng Việt Nam), giữ vai trò thư ký đoàn, một trong 18 thành viên tham gia Hội nghị RAN-III nhấn mạnh.
Phấn đấu đưa các công trình quản lý bay trọng điểm về đích vượt tiến độ
Ông Dũng bồi hồi kể lại, các thành viên quốc tế tham gia RAN-III hết sức ấn tượng với bà Tôn Nữ Thị Ninh, nhà ngoại giao kỳ cựu, giữ vai trò chuyên gia ngôn ngữ của đoàn, với tinh thần cương quyết, khôn khéo, sử dụng nhuần nhuyễn, triệt để những lợi thế của phía Việt Nam, đã góp phần đem lại thắng lợi cho đoàn trong quá trình đàm phán. Về sau, nhiều chuyên gia hàng không quốc tế vẫn còn nhắc lại tên bà với “Nick-name”: Tiger Lady (Bà Hổ).
“Quả ngọt” của quá trình đàm phán
Cũng là thành viên tham gia đoàn đàm phán tại Hội nghị RAN-III, ông Nguyễn Quý Bính, nguyên Vụ trưởng Luật pháp và điều ước quốc tế (Bộ Ngoại giao) khẳng định, FIR Hồ Chí Minh là vùng trời nhộn nhịp thứ 3 trên thế giới, mang lại nguồn tiền lớn từ các hãng hàng không chi trả phí quản lý không lưu khi bay qua. Do đó, các nước Thái Lan, Singapore, Hongkong đều muốn giành quyền điều hành về mình.
Tuy nhiên, được sự chuẩn bị kỹ càng trong thời gian 10 năm, có kế hoạch đầu tư nâng cấp về thiết bị, cơ sở, radar,… với sự trợ giúp của ICAO để bảo đảm theo đúng tiêu chuẩn, Đề án giành lại FIR Hồ Chí Minh được trình Bộ Chính trị, Hội đồng Bộ trưởng (Chính phủ), Bộ Ngoại giao để ra Công hàm vận động các nước trong khu vực và thế giới ủng hộ Việt Nam giành lại FIR Hồ Chí Minh.
Ông Phạm Việt Dũng (ngoài cùng bên trái), ông Nguyễn Quý Bính (thứ hai từ trái sang), ông Lê Ngọc Sơn (thứ 3 từ trái sang) tham gia tọa đàm. |
Đại tá Lê Ngọc Sơn, thời điểm đó là cán bộ Cục Tác chiến (Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam), thành viên tham gia Hội nghị RAN-III nhấn mạnh, để giành quyền kiểm soát FIR Hồ Chí Minh ở RAN-III, ngành hàng không phải bảo đảm các yêu cầu về thiết bị, cơ sở radar thứ cấp, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn,...
Trong bối cảnh nước ta vẫn vẫn còn nhiều khó khăn sau chiến tranh, bị bao vây, cấm vận, các trang thiết bị, hạ tầng này đã được Bộ Quốc phòng giao, bổ sung cho ngành hàng không. Do đó, Việt Nam có đủ khả năng để quản lý vùng trời, tiếp nhận bảo đảm an toàn tất cả máy bay qua FIR Hồ Chí Minh.
Để giữ tuyệt đối bí mật các thông tin trong thời gian đàm phán, 18 thành viên tham gia đoàn RAN-III không ở khách sạn được bố trí mà vào tá túc trong một căn phòng rộng chừng 20m2, nhỏ hẹp tại Đại sứ quán Việt Nam ở Thái Lan, tìm cách thường xuyên báo cáo tình hình về nước để nhận sự chỉ đạo, tư vấn hỗ trợ nhằm chủ động trên bàn đàm phán”, ông Sơn nhớ lại.
Ông Lê Hoàng Minh, Chủ tịch Hội đồng thành viên VATM phát biểu. |
Theo ông Lê Hoàng Minh, Chủ tịch Hội đồng thành viên VATM, sau hơn 19 năm đấu tranh cam go, căng thẳng, bền bỉ, khôn khéo và cương quyết, dưới sự chỉ đạo chặt chẽ, toàn diện của Bộ Chính trị và Chính phủ cả trên phương diện ngoại giao; việc giành lại quyền điều hành phần phía Nam FIR Hồ Chí Minh có ý nghĩa rất to lớn về chính trị, ngoại giao, an ninh quốc phòng, đã trực tiếp tạo tiếng nói quan trọng trong các vấn đề chủ quyền, quyền chủ quyền lãnh thổ trên Biển Đông, khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế về hoạt động hàng không dân dụng nói chung, công tác cung cấp dịch vụ bảo đảm hoạt động bay nói riêng; tạo sự chủ động cho các hoạt động bay quân sự của ta và gián tiếp hỗ trợ công tác bảo vệ vùng trời Tổ quốc.
FIR Hà Nội và FIR Hồ Chí Minh hiện nay. |
Hiện nay, quy mô cung cấp dịch vụ quản lý bay của Việt Nam được thực hiện trên diện tích gần 1,2 triệu km2, phạm vi trải rộng tại 28 tỉnh, thành phố. Ðặc biệt, FIR Hồ Chí Minh là vùng trời rộng lớn với nhiều tiềm năng kinh tế, trải rộng hơn một nửa chiều dài đất nước, từ Quảng Trị cho đến mũi Cà Mau, tầm vươn ra biển hơn 500 km. Hiện, trong FIR Hồ Chí Minh, ngành hàng không có vài chục đường bay quốc tế và nội địa, đồng thời còn nằm trong giao điểm với khoảng 20 đường bay qua các nước trong khu vực.
VATM khai thác Phân khu 7 Vùng thông báo bay Hồ Chí Minh
Trong 30 năm qua, Việt Nam đã tổ chức quản lý vùng FIR Hồ Chí Minh với chất lượng dịch vụ bảo đảm hoạt động an toàn, điều hòa và hiệu quả. Các dịch vụ điều hành bay trong FIR Hồ Chí Minh không những mang lại những nguồn lực tài chính lớn cho sự phát triển của VATM cho đến ngày nay, mà còn khẳng định độc lập, chủ quyền quốc gia. Theo đó, VATM đã bảo đảm điều hành bay tuyệt đối an toàn cho gần 12 triệu chuyến bay trong vùng trời trách nhiệm, tổng thu điều hành bay ước đạt hơn 75.000 tỷ đồng, nộp ngân sách Nhà nước hơn 36.000 tỷ đồng. Ðây chính là "quả ngọt" của quá trình đấu tranh bền bỉ và việc giành lại FIR Hồ Chí Minh là mốc son chói sáng để hôm nay có những cánh bay không mỏi trên bầu trời rộng mở.