Chung quanh việc cổ phần hóa các doanh nghiệp cấp, thoát nước

Theo Quyết định số 38/2007/QÐ/TTg của Thủ tướng Chính phủ và Nghị định số 109/2007/NÐ-CP của Chính phủ về tiêu chí, danh mục phân loại doanh nghiệp và chuyển DN 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần, thì DN sản xuất cung cấp nước sạch và thoát nước đô thị nằm trong diện cổ phần hóa (CPH), do Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối hơn 50% số cổ phần. Chung quanh việc thực hiện CPH những DN này, đang đặt ra những vấn đề cần quan tâm.

Những vướng mắc

Việc CPH các DN cấp, thoát nước là bước đi tất yếu, Nhà nước đã ban hành các văn bản pháp quy để thực hiện. Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển DN các tỉnh, thành phố trực thuộc T.Ư đã trình Thủ tướng Chính phủ đề án tiến hành CPH các công ty cấp nước và thoát nước đô thị theo lộ trình từ nay đến hết năm 2010.

Theo đó, lĩnh vực kinh doanh nước sạch tiến hành CPH có nhiều thuận lợi hơn. Bởi lẽ, sản phẩm nước sạch có điều kiện đo đếm chính xác từ khâu khai thác, xử lý chế biến, truyền tải thông qua mạng đường ống đến từng hộ tiêu dùng. Người sử dụng nước sạch phải ký hợp đồng mua, trả tiền theo đúng khối lượng đã sử dụng và giá tiêu thụ nước sạch do UBND cấp tỉnh, thành phố quy định. Từ năm 2001, Nhà nước đã ban hành các văn bản pháp quy nêu rõ nước sạch không phải là sản phẩm công ích mà là hàng hóa tiêu dùng phục vụ đời sống con người và phục vụ các ngành sản xuất vật chất khác. Nhà nước xóa bỏ cơ chế bao cấp về sản xuất cũng như cung ứng tiêu thụ nước sạch. Các DN cấp nước phải chuyển sang hoạt động kinh doanh. Giá tiêu thụ nước sạch phải được tính đúng, tính đủ và thu hồi đầy đủ mọi chi phí, làm tốt nghĩa vụ nộp ngân sách và có lãi.

Ðến nay, ngành cấp nước đã có ba DN tiến hành CPH, đó là: Công ty cấp nước Sơn La; Công ty cấp nước Bà Rịa-Vũng Tàu và Công ty cấp nước Lâm Ðồng. Riêng Tổng công ty cấp nước Sài Gòn (SAWACO) đã thực hiện CPH các công ty quản lý mạng và dịch vụ cấp nước đến các hộ tiêu thụ. Qua đó, các DN kinh doanh nước sạch bước đầu có ít nhiều kinh nghiệm khi tiến hành CPH và điều hành sản xuất, kinh doanh theo cơ chế mới.          

Các DN thoát nước có những nét đặc thù. Ðó là, sản phẩm làm ra không thể cân đong, đo đếm một cách chính xác bằng trọng lượng hay khối lượng và đơn giá của 1 m3 nước mưa, nước thải sinh hoạt là bao nhiêu tiền. Năm 1999, Thông tư liên tịch số 03 giữa Ban Vật giá Chính phủ và Bộ Xây dựng cho phép thu phí thoát nước, được tính mức tối thiểu bằng 10% so với giá nước sạch và giao cho Công ty kinh doanh nước sạch thu hộ ngân sách từ hóa đơn mua nước sạch của từng hộ tiêu dùng. Số tiền thu được mới bảo đảm được từ 30% đến 35% chi phí quản lý vận hành hệ thống thoát nước, chưa nói gì đến công tác sửa chữa, đầu tư hệ thống thoát nước đô thị. Những chi phí còn thiếu đều do ngân sách địa phương cấp bù.

Từ khi Nghị định về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải có hiệu lực thi hành thì việc thu phí thoát nước bằng 10% so với giá nước sạch bị ngừng lại. Hiện nay, rất nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc T.Ư chưa có quy định và hướng dẫn việc thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải sinh hoạt. Ðối với mức thu phí thoát nước theo Thông tư số 03 Bộ Tài chính cho rằng không còn tính pháp lý để thực hiện, trong khi đó Thông tư liên tịch số 104/2004/TTLT-BTC-BXD ngày 8-11-2004 hướng dẫn nguyên tắc, phương pháp và thẩm quyền quyết định giá tiêu thụ nước sạch lại không đề cập đến việc thu phí thoát nước nữa.

Từ thực trạng nêu trên cho thấy DN thoát nước đô thị chưa có đối tượng mua sản phẩm do mình làm ra. Toàn bộ chi đầu tư, sửa chữa, duy tu, bảo quản, vận hành hệ thống thoát nước đô thị đều do ngân sách cấp; các DN thoát nước chưa thật sự hoạt động kinh doanh.

Một số kiến nghị

Ðể việc CPH các DN sản xuất và cung cấp nước sạch, cũng như các DN thoát nước đô thị được tiến hành thuận lợi và vững chắc, chúng tôi xin nêu một số kiến nghị, giải pháp sau:

Ðối với ngành cấp nước, yêu cầu phát triển bền vững đòi hỏi các DN cấp nước phải thu hồi đầy đủ mọi chi phí và có lãi; phải tích luỹ để tái tạo và phát triển giá trị tài sản cố định. Nghĩa là, phải có vốn để cải tạo, nâng cấp, đầu tư mở rộng tài sản cố định của mình. Mấu chốt của vấn đề là giảm thất thoát nước sạch đến mức hợp lý, hiện nay, tỷ lệ thất thoát nước sạch và thất thu tiền nước còn khá lớn. Do đó, các DN cấp nước cần thực hiện tốt việc tiết kiệm chi phí và chống thất thoát nước sạch.

Thực hiện Chỉ thị số 04/2004/CT-TTg ngày 20-1-2004 của Thủ tướng Chính phủ "Về đẩy mạnh công tác quản lý cấp nước và tiêu thụ nước sạch" Bộ Tài chính và Bộ Xây dựng đã ban hành Thông tư liên tịch số 104 hướng dẫn phương pháp tính giá tiêu thụ nước sạch  theo nguyên tắc tính đúng, tính đủ mọi chi phí. Thông tư đã ban hành ba năm, nhưng đến nay rất nhiều tỉnh và thành phố trực thuộc T.Ư chưa chấp nhận với khá nhiều lý do như: tính đúng, tính đủ là một quá trình; giá nước sạch phải phù hợp với khả năng chi trả của người tiêu dùng. Vì vậy, cách tính giá thế nào cũng cho là vượt khả năng chi trả. Việc lấy lý do vượt khả năng chi trả để không cho DN kinh doanh nước sạch tính đúng, tính đủ giá tiêu thụ nước sạch là chưa ổn.

Ðối với việc CPH các DN thoát nước đô thị có ba giải pháp:

Một là, cần xác định mức thu phí thoát nước một cách hợp lý. Ðồng thời, tiếp tục giao cho Công ty kinh doanh nước sạch thu hộ cho ngân sách, cơ quan quản lý ngân sách địa phương quản lý và thanh toán cho Công ty cổ phần thoát nước theo đơn đặt hàng mà chính quyền đô thị đã ký hợp đồng với Công ty cổ phần thoát nước đô thị theo phương thức đặt hàng hoặc đấu thầu thực hiện loại hình dịch vụ này.

Hai là, để có căn cứ cho việc đặt hàng và ký hợp đồng kinh tế làm dịch vụ thoát nước đô thị, cần có định mức kinh tế - kỹ thuật và đơn giá từng loại công việc. Bộ Xây dựng đã ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật  một số công việc có thể đo đếm được như nạo vét các loại đường ống, kênh mương nhỏ... Nhưng còn rất nhiều công việc không thể xây dựng được định mức. Vì vậy, việc lập dự toán kinh phí để thực hiện dịch vụ thoát nước đô thị vừa phải kết hợp tính khối lượng đo đếm được, có định mức và đơn giá, vừa phải đúc rút kinh nghiệm thực tế của nhiều năm thực hiện dịch vụ này để xác định chi phí cho các công việc chưa có định mức đơn giá.

Ðây là vấn đề phức tạp chỉ những người có chuyên môn sâu mới có thể lập được dự toán hàng năm để đặt hàng hoặc đấu thầu thực hiện sản phẩm dịch vụ thoát nước đô thị.

Ba là, hiện nay ở các đô thị đều có các DN thoát nước 100% vốn nhà nước do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc T.Ư quyết định thành lập để thực hiện chức năng làm dịch vụ thoát nước đô thị, nay chuyển các DN này sang công ty cổ phần Nhà nước nắm giữ hơn 50% số cổ phần, thì nên thực hiện cơ chế đặt hàng, sau một thời gian rút kinh nghiệm sẽ bổ sung hình thức đấu thầu.

VIỆC chuyển các DN cấp nước, DN thoát nước đô thị sang CPH do Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối (hơn 50% số cổ phần) cần được các cơ quan liên quan nghiên cứu, ban hành các cơ chế, chính sách phù hợp nhằm góp phần không chỉ cung ứng đủ nước sạch phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân, mà còn làm tốt công tác thoát nước đô thị.

Nguyễn Tôn
Chủ tịch Hội Cấp, thoát nước Việt Nam

Giá nước sạch phải khuyến khích sử dụng nước tiết kiệm

Theo Nghị định số 170/2003/NÐ-CP ngày 25-12-2006 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Giá thì nước sạch cho sinh hoạt thuộc danh mục tài sản, hàng hóa dịch vụ do Nhà nước định giá. Tuy là mặt hàng thuộc danh mục Nhà nước quy định nhưng ngay từ thời gian này, khung giá do Bộ Tài chính quy định và hướng dẫn của liên bộ để UBND cấp tỉnh quy định giá cụ thể đã nêu rõ: "Giá tiêu thụ nước sạch phải được tính đúng, tính đủ các yếu tố chi phí của giá thành toàn bộ và lợi nhuận hợp lý trong quá trình sản xuất, phân phối tiêu thụ để các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh nước sạch duy trì và phát triển. Giá tiêu thụ nước sạch phải có tác dụng khuyến khích đơn vị cấp nước sạch nâng cao chất lượng về nước sạch, nâng cao chất lượng dịch vụ đáp ứng nhu cầu của khách hàng và phấn đấu giảm chi phí, giảm thất thoát nước; có tác dụng khuyến khích khách hàng sử dụng nước tiết kiệm".

Nguyễn Tiến Thỏa
Cục trưởng quản lý giá, Bộ Tài chính

Cần tiến hành theo lộ trình

Ðể bảo đảm việc CPH không làm ảnh hưởng đến nhiệm vụ cấp nước cho nhân dân, khi CPH doanh nghiệp cấp nước cần thực hiện theo lộ trình, đồng thời có sự nghiên cứu, tính toán cụ thể trong việc xác định khâu nào sẽ thực hiện CPH, khâu nào nhà nước tiếp tục giữ 100% vốn hoặc giữ cổ phần chi phối. Từ thực tế quản lý cho thấy để thuận lợi cho việc CPH và hoạt động của doanh nghiệp cấp nước sau cổ phần hóa, nên thực hiện CPH các nhà máy  sản xuất nước sạch trước. Ðây là khâu thuận tiện cho việc xác định hiệu quả sản xuất, kinh doanh để thu hút đầu tư, còn đối với khâu lưu thông, Nhà nước cần giữ cổ phần chi phối để bảo đảm an ninh cấp nước cũng như thuận lợi cho việc thực hiện các chính sách về giá nước.

Bùi Văn Mật
Giám đốc Công ty kinh doanh nước sạch Hà Nội

Nhà nước cần giữ cổ phần chi phối

Do đặc thù của lĩnh vực thoát nước đô thị, cho dù định giá hay không định giá tài sản thoát nước đô thị, kể cả nguồn vốn ODA trong các doanh nghiệp thoát nước đô thị đi chăng nữa thì cũng không ảnh hưởng nhiều đến vấn đề CPH tại các doanh nghiệp này. Bởi trong thời điểm và hoàn cảnh hiện nay, người dân chưa thể tự bỏ vốn đầu tư xây dựng hệ thống thoát nước đô thị mà ngân sách Nhà nước vẫn phải đầu tư.

Chính vì vậy, cho dù có thành lập công ty cổ phần thì Công ty Thoát nước đô thị tại các địa phương cũng vẫn phải thực hiện các chức năng chính gồm: Tiếp nhận và quản lý tài sản thoát nước đô thị hiện có do Nhà nước đầu tư; thực hiện dịch vụ thoát nước đô thi; đầu tư và phát triển hệ thống thoát nước đô thị. Tuy nhiên, để bảo đảm yêu cầu quản lý và phát triển, việc CPH các công ty nhà nước hoạt động trên lĩnh vực thoát nước đô thị, Nhà nước vẫn phải giữ cổ phần chi phối.

Hoàng Đức Thảo
Giám đốc Công ty thoát nước đô thị Bà Rịa - Vũng Tàu

Có thể bạn quan tâm