Chung quanh mô hình đặc khu

Những nội dung mới, quan trọng của dự án Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt (ĐVHCKTĐB) Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc tiếp tục được thảo luận thấu đáo tại phiên họp tuần qua của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Làm rõ các cơ chế, chính sách đặc biệt

Một trong những vấn đề được nhiều đại biểu QH quan tâm là phải trả lời một cách thuyết phục, khả thi cho câu hỏi, ba đặc khu này mang lại lợi ích thiết thực gì, tạo nên sức lan tỏa như thế nào để phát triển đất nước trong lâu dài? Dẫn lời phân tích của nhiều chuyên gia kinh tế nhận định nguồn đầu tư dự kiến cho ba đặc khu sắp tới cần hơn một triệu tỷ đồng, Chủ tịch QH Nguyễn Thị Kim Ngân nêu ý kiến về ngân sách đầu tư, cần phải khẳng định phần lớn là thu hút đầu tư chứ không phải từ ngân sách. Trong khi ngân sách đầu tư phát triển cả nước 5 năm chỉ khoảng hai triệu tỷ đồng, làm sao bỏ vào đây một triệu tỷ đồng! Dự kiến, Quốc hội xem xét thông qua dự án luật này tại kỳ họp giữa năm nay được xem là khung pháp lý cơ bản để vận hành các đặc khu. Thời gian qua, với tính chất và tầm quan trọng của mô hình mới, khó về đặc khu, đòi hỏi nguồn lực đầu tư rất lớn, giới chuyên gia trong nước và nước ngoài trên nhiều diễn đàn đã tham gia kiến nghị, tư vấn nhiều giải pháp đầu tư làm sao đạt hiệu quả tại đặc khu, tạo sức đột phá, lan tỏa trong tầm nhìn phát triển đất nước. Việc huy động nguồn lực lớn, trong đó nếu phần lớn từ nguồn ngân sách có thể tạo ra gánh nặng rất lớn cho nền kinh tế... Tham gia thảo luận nội dung này, Phó Chủ tịch QH Phùng Quốc Hiển bày tỏ băn khoăn về việc các báo cáo giải trình đến nay vẫn chưa đưa ra lời giải thích rõ ràng. Nhiều đại biểu cho rằng, một phần nguồn đầu tư ban đầu cũng từ ngân sách nhà nước bỏ ra, chưa tính các chính sách ưu đãi thuế thực chất cũng là tiền ngân sách.

Sau hội nghị đại biểu QH chuyên trách mới đây, dự thảo luật lần này được chỉnh lý, đặc biệt đã bỏ quy định về Hội đồng Tư vấn đặc khu trong mô hình chính quyền đặc khu. Các chính sách ưu đãi cũng được điều chỉnh, bổ sung, có sự phân biệt giữa các đặc khu. Trong số các cơ chế, chính sách đặc biệt liên quan đất đai, về thời hạn sử dụng đất, Ủy ban Pháp luật của QH cho biết: Thực hiện kết luận của Bộ Chính trị, quy định về thời hạn sử dụng đất trong dự thảo luật được chỉnh lý như sau: “Căn cứ vào quy mô, tính chất của dự án đầu tư và đề xuất của nhà đầu tư, Chủ tịch UBND đặc khu quyết định thời hạn sử dụng đất để sản xuất, kinh doanh tại đặc khu nhưng không quá 70 năm; trường hợp đặc biệt, thời hạn sử dụng đất có thể dài hơn nhưng không quá 99 năm do Thủ tướng Chính phủ quyết định” (khoản 1 Điều 32).

Về ngành, nghề ưu tiên phát triển tại các đặc khu, Thường trực Ủy ban Pháp luật và Cơ quan soạn thảo thấy rằng, các ngành, nghề ưu tiên phát triển là nội dung mang tính trọng tâm, xuyên suốt, thể hiện mục tiêu, định hướng phát triển của từng đặc khu, là căn cứ để xác định và thực hiện các chính sách ưu đãi và chính sách khác. Do đó, cần được quy định rõ, hạn chế mở rộng nhằm bảo đảm nguyên tắc ưu đãi có trọng tâm, trọng điểm, phát huy lợi thế của từng đặc khu... Đến nay, Thường trực Ủy ban Pháp luật phối hợp Cơ quan soạn thảo rà soát và thống nhất đề nghị: bổ sung ngành, nghề dịch vụ tài chính và logistics đối với đặc khu Vân Đồn; bổ sung ngành, nghề sản xuất sản phẩm và chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực hải dương, hàng hải, sinh học và sinh thái biển đối với đặc khu Bắc Vân Phong.

Về ý kiến cho rằng quy mô vốn đầu tư tối thiểu đối với các dự án: cảng hàng không quốc tế (5.000 tỷ đồng), cảng biển hàng hóa và hành khách quốc tế (3.000 tỷ đồng) tại các phụ lục của dự thảo luật là thấp, không nên ưu tiên thu hút đầu tư, Thường trực Ủy ban Pháp luật đề nghị Cơ quan soạn thảo tiếp tục giải trình, làm rõ. Chủ tịch QH lưu ý rà soát kỹ các chính sách để bảo đảm không có những chính sách ưu đãi đối với nhà đầu tư nước ngoài cao hơn nhà đầu tư trong nước, qua đó tạo môi trường bình đẳng cho doanh nghiệp Việt Nam có thể tham gia đầu tư.

Bộ máy tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả

Vấn đề tổ chức chính quyền địa phương, mô hình tổ chức chính quyền địa phương ở đặc khu được chỉnh lý bảo đảm phù hợp quy định của Hiến pháp, kết luận của Hội nghị T.Ư 11 (khóa XI) và ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị. Theo đó, chính quyền địa phương ở đặc khu gồm có Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND) với những đổi mới cơ bản về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm nhằm bảo đảm tinh gọn, hiệu lực và hiệu quả. Về Văn phòng giúp việc HĐND, UBND đặc khu, phần lớn ý kiến Thường trực Ủy ban Pháp luật tán thành tổ chức một Văn phòng giúp việc chung như thể hiện tại khoản 1 Điều 62 của dự thảo luật để bảo đảm tinh gọn tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, thống nhất với tổ chức bộ máy Văn phòng giúp việc ở chính quyền địa phương cấp huyện trong cả nước.

Bên cạnh đó, có ý kiến đề nghị tổ chức Văn phòng giúp việc HĐND tách bạch với Văn phòng giúp việc UBND nhằm phù hợp đặc thù về tổ chức và hoạt động của HĐND đặc khu. Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội Nguyễn Văn Giàu cho rằng, muốn quản lý vượt trội thì bộ máy phải thiết kế rõ hơn. Như mô hình một văn phòng giúp việc chung cho HĐND và UBND, yêu cầu chất lượng đội ngũ cán bộ, bộ máy giúp việc như thế nào trong dự thảo luật nêu chưa rõ. Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của QH Hà Ngọc Chiến và một số đại biểu khác đề nghị có quy định vẫn phải kế thừa bộ máy hiện tại, nhưng sớm đưa ra lộ trình thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao cho bộ máy, bảo đảm yêu cầu quản lý, điều hành tại đặc khu giải quyết, vận hành nhiều công việc khó khăn, phức tạp...

Nhấn mạnh mô hình chính quyền địa phương hiện nay cơ bản thống nhất có cả HĐND và UBND, Chủ tịch QH Nguyễn Thị Kim Ngân khẳng định: Đặc điểm lớn nhất là mô hình gọn nhẹ, HĐND không quá 15 người, hoạt động chuyên trách, UBND tại đặc khu chỉ có một chủ tịch và hai phó chủ tịch, dự thảo mới cũng bỏ quy định về hội đồng tư vấn đặc khu. Dự thảo luật quy định rõ cơ chế phòng ngừa và kiểm soát quyền lực để tránh lạm quyền...

Nhiều ý kiến đại biểu QH bày tỏ quan tâm vấn đề cán bộ, công chức và chính sách đối với người làm việc tại các cơ quan, tổ chức của chính quyền địa phương ở đặc khu. Theo đó, về cơ bản đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay ở ba địa phương được sắp xếp lại để tiếp tục làm việc trong bộ máy. Riêng bộ phận công chức chuyên môn sẽ thực hiện theo chế độ tuyển dụng có thời hạn để thử nghiệm chính sách mới; việc tuyển dụng được thực hiện theo vị trí việc làm trên cơ sở nguyên tắc người sử dụng lao động trực tiếp tuyển dụng lao động. Đồng thời, cải cách mạnh mẽ chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động làm việc trong các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập ở đặc khu.

Có thể bạn quan tâm