Chưa đăng ký kết hôn có được hưởng thừa kế của chồng?

Hỏi: Chúng tôi tuy chưa kết hôn, nhưng đã là vợ chồng (hôn nhân thực tế). Vừa qua, chồng tôi qua đời đột ngột không để lại di chúc nên nhà chồng không chịu chia tài sản cho tôi. Xin hỏi, chưa đăng ký kết hôn có được hưởng thừa kế tài sản của chồng tôi để lại không? 

Trả lời: Luật Hôn nhân và Gia đình hiện hành và các văn bản hướng dẫn quy định trong trường hợp nam, nữ không đăng ký kết hôn mà sống chung với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng.

Song, mặt khác, pháp luật cũng hướng dẫn một số trường hợp cụ thể như: nam, nữ sống chung với nhau từ trước ngày 3-1-1987 (ngày Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 có hiệu lực) thì được coi là vợ chồng; hoặc trước ngày 1-1-2001 theo Nghị quyết 35/2000/QH10 hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 về đăng ký kết hôn) thì phải đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm.

Theo đó, đối với các tranh chấp về thừa kế trong trường hợp chưa có đăng ký kết hôn cũng có sự khác biệt, được Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP - TAND Tối cao hướng dẫn như sau:

- Trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 3-1-1987, nếu có một bên chết trước thì bên còn sống được hưởng di sản của bên chết để lại theo quy định của pháp luật về thừa kế;

- Trường hợp nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 3-1-1987 đến ngày 1-1-2001 mà có đủ điều kiện theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn 2 năm, kể từ ngày 1-1-2001 đến ngày 1-1-2003. Nếu đến trước ngày 1-1-2003 mà có một bên vợ hoặc chồng chết trước thì bên chồng hoặc vợ còn sống được hưởng di sản của bên chết để lại theo quy định của pháp luật về thừa kế.

Trong trường hợp sau ngày 1-1-2003 họ vẫn chưa đăng ký kết hôn mà có một bên vợ hoặc chồng chết trước và có tranh chấp về thừa kế thì trong khi chưa có quy định mới của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, tùy từng trường hợp mà Tòa án xử lý như sau:

+ Nếu chưa thụ lý vụ án thì không thụ lý vụ án;

+ Nếu đã thụ lý vụ án và đang giải quyết thì ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án.

--------------------------------

Di sản là tài sản chung của vợ chồng

Hỏi: Vợ chồng tôi mua một ngôi nhà và đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở. Sau đó ít lâu, chồng tôi qua đời không để lại di chúc. Tôi tiếp tục ở tại ngôi nhà đó. Ba người con của chúng tôi sống tại nhà riêng. Nay tôi muốn lập di chúc cho một người con của chúng tôi thừa kế ngôi nhà này có được không? Di chúc có cần các con tôi thỏa thuận đồng ý hay cơ quan nhà nước xác nhận không ?

Trả lời: Theo các quy định của Bộ luật Dân sự và Luật Hôn nhân và gia đình, ngôi nhà mà vợ chồng bà đã mua và được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở là tài sản chung của vợ chồng bà. Do vậy, bà và chồng bà có quyền sở hữu ngang nhau đối với tài sản đó.

Khi ông nhà mất đi không để lại di chúc, theo pháp luật, một nửa ngôi nhà thuộc quyền sở hữu của ông được xác định là di sản thừa kế và phải được chia theo pháp luật. Căn cứ các chế định về thừa kế theo pháp luật, bà và ba người con thuộc hàng thừa kế thứ nhất, mỗi người được hưởng một kỷ phần bằng nhau đối với di sản ông nhà để lại.

Như vậy, mặc dù bà vẫn sống tại ngôi nhà đó nhưng bà chỉ có quyền sở hữu và định đoạt (chuyển nhượng, tặng cho, đổi, để lại di chúc...) đối với một nửa ngôi nhà thuộc quyền sở hữu của bà cùng một phần tư phần nhà thuộc di sản của chồng bà để lại.

Ba người con của bà mỗi người có quyền thừa kế một phần tư phần nhà thuộc di sản của ông nhà. Vì vậy, khi bà lập di chúc đối với ngôi nhà này, nó sẽ chỉ có giá trị đối với phần nhà thuộc sở hữu của bà. Phần còn lại sẽ bị vô hiệu.

Nếu muốn có quyền định đoạt đối với toàn bộ ngôi nhà, bà phải được các đồng thừa kế, tức là các con của bà có văn bản từ chối quyền thừa kế đối với di sản của chồng bà để lại. Việc từ chối này phải được thông báo với UBND xã, phường, thị trấn hoặc Công chứng nhà nước.

Sau khi có được quyền định đoạt toàn bộ ngôi nhà, bà có thể lập di chúc cho bất kỳ người con nào của mình hoặc bất kỳ tổ chức, cá nhân nào mà không cần sự thỏa thuận, đồng ý của các con bà hoặc người khác.

Theo quy định tại chế định Thừa kế- Bộ luật Dân sự, di chúc được lập thành văn bản, có thể do người lập di chúc tự viết và ký nhận hoặc có thể có người làm chứng, được cơ quan chức năng chứng thực hoặc công chứng.

Nếu di chúc bằng văn bản không có người làm chứng thì di chúc phải do chính tay người để lại di chúc viết, có chữ ký, ghi đầy đủ họ tên của người lập di chúc.

Nếu người để lại di chúc không thể tự tay viết di chúc thì có thể nhờ người khác viết nhưng phải có ít nhất hai người làm chứng. Người lập di chúc ký, điểm chỉ trước mặt người làm chứng. Người làm chứng ký xác nhận vào bản di chúc. Người làm chứng phải là người có đầy đủ năng lực hành vi, từ 18 tuổi trở lên và không là người được trao quyền thừa kế trong di chúc hoặc người có quyền lợi liên quan đến nội dung di chúc.

Ngoài ra, người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng viên lập di chúc và công chứng, chứng thực tại nhà riêng của người lập di chúc hoặc tại trụ sở ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú.

Có thể bạn quan tâm