Chiếc nóp Nam Bộ

Năm mươi chín mùa thu đã đi qua, nhưng giờ đây mỗi lần nghe bài hát "Nam Bộ kháng chiến" của nhạc sĩ Tạ Thanh Sơn, lòng tôi không khỏi bồi hồi xúc động:

"Mùa thu rồi, ngày hăm ba. Ta đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến. Nóp với giáo mang ngang vai. Nhưng thân trai nào kém oai hùng..." Âm vang của bài hát như còn làm rung động bao trái tim người chiến sĩ theo nhịp bước quân hành.

Hình ảnh của nóp và giáo gợi lại trong ta hình tượng những đoàn quân chân không, tay cầm ngọn tầm vông, vai mang chiếc nóp rầm rập tiến trên các nẻo đường hành quân. Trong những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, chiếc nóp và gậy tầm vông là hai vật bất ly thân của chiến sĩ Nam Bộ. Trong các loại vũ khí thô sơ, ngọn tầm vông là thứ vũ khí lợi hại nhất của nghĩa quân Trương Công Ðịnh mà cụ Nguyễn Ðình Chiểu đã từng ca ngợi: "Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu nón gõ..."

Cuộc chiến đấu của quân và dân ta trên chiến trường miền nam diễn ra trong điều kiện cực kỳ khó khăn, gian khổ. Song, quân và dân ta đã chiến đấu anh dũng và kiên cường bằng các loại vũ khí thô sơ.

Trong cuộc hội nghị khoa học về văn hóa, văn nghệ truyền thống và dân gian ÐBSCL tại thành phố Cần Thơ năm 1983, nhiều đại biểu đã thống nhất với định nghĩa: "Nóp là tấm đệm gập lại, may khít hai đầu, chừa mí ngang, gọi là lưỡi gà để chui vào nằm."

Chiếc nóp ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta còn gặp muôn vàn khó khăn. Nó cũng là sản phẩm độc đáo của nhân dân Nam Bộ, là vật thiết thân của những người nghèo, của kẻ tha hương cầu thực. Trên bước đường gian truân kiếm sống, chiếc nóp là bạn đồng hành giúp cho họ có được những giấc ngủ yên lành, nhất là những nơi sình lầy như Ðồng Tháp Mười, nơi mà ngày đêm đều "Muỗi kêu như sáo thổi. Ðỉa lội tựa bánh canh."

Vai mang chiếc nóp rách
Tay xách cổ quai chèo
Nhưng vì thương con nhớ mẹ
Bởi phận nghèo anh phải ra đi...

Ðó chính là những lời thở than đứt ruột vang lên từ một vùng quê xa lơ xa lắc, từ những cánh đồng mênh mông hiu quạnh nhằm mô tả cảnh đời cơ cực của những cư dân đi làm ăn xa thời Pháp thuộc mà hành trang chỉ có chiếc nóp với ít áo quần được gói kỹ bên trong.

Theo nhà khảo cổ Vương Hồng Sển thì nóp là bao đệm to, dài cỡ hai thước, may kín, chừa miệng theo chiều dọc, ban đêm dân lao động Hậu Giang dùng để chui vô ngủ. Theo các nguồn tài liệu khác thì "Thời Thiên Hộ Vương lập chiến khu đánh Tây ở Ðồng Tháp Mười, số nghĩa quân lên tới hàng nghìn, mỗi đồn có tới hai ba trăm người nhưng hầu hết đều không có mùng mền, mỗi người chỉ mang theo một chiếc đệm bàng rồi gập đôi lại, tối chui vô nằm cho đỡ bị muỗi cắn. Lúc đầu chiếc nóp trông có vẻ đơn giản, về sau anh em nghĩa quân thấy chiếc đệm bàng có nhiều công dụng nên mới cải tiến dần và ngày càng phổ biến rộng đến nhân dân.

Tháp Mười và Kiên Giang là quê hương của các loài cỏ đưng, cỏ lác nhưng nổi tiếng nhứt vẫn là bàng. Bàng làm ra đệm, nón, giỏ. Hình ảnh các thanh niên đầu bịt khăn lom khom nhổ bàng và gánh bàng, đặc biệt là những người con gái giã bàng, đan đệm sẽ còn đọng lại mãi trong những lời ca tiếng hát ngọt ngào và làm xúc động bao thế hệ thanh niên lên đường hành quân diệt giặc.

Chiều hôm em đứng giã bàng
Thương anh quảy nóp trong hàng
                                  quân đi.

Vào những năm kháng chiến ác liệt, từ những nơi xa xôi, hàng trăm phụ nữ, mẹ già thức đêm giã bàng, đan đệm, chằm nóp gửi ra tiền tuyến cho con, cho chồng và tặng người yêu đang ngày đêm chiến đấu sẽ còn làm rung động mãi trái tim Việt Nam:

Nóp nầy em gởi tặng anh
Thuyền em bơi tận trong kinh Tháp Mười
Gởi ba nó ngủ ấm lòng
Ðể đi giết giặc lập công thật nhiều

(Ca dao sưu tầm)

Ði đến đâu người làm thuê  gánh mướn bao giờ cũng giữ chiếc nóp bên mình. Khi mỏi mệt dựa lưng vào phì phà khói thuốc. Lúc buồn ngủ chui vô làm một giấc ngon lành. Từ việc ngủ bờ ngủ bụi cho tới ngủ xuồng ngủ ghe, ngủ chăn vịt, ngủ giăng câu đặt lờ... không có gì hữu dụng bằng chiếc nóp quê mình.

Thời kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhiều anh em du kích vẫn còn quấn khăn rằn nằm nóp nhưng chiếc nóp trong thời kỳ này được cải tiến tiện lợi hơn.

Ngày nay, đất nước ta, nhân dân ta đã có cuộc sống đàng hoàng hơn, tươi đẹp hơn gấp mười lần, song chiếc nóp và gậy tầm vông vẫn sống mãi trong lòng chúng ta. Nó đã đi vào hồn, vào tâm thức của bà con Nam Bộ, là biểu tượng của tinh thần hiên ngang bất khuất và tinh thần chịu đựng gian khổ trong suốt hai cuộc kháng chiến thần kỳ giành độc lập, tự do cho dân tộc.

Có thể bạn quan tâm