Lịch sử sân khấu Việt Nam đã ghi rõ ngày khai sinh của Ðoàn chèo Hà Nội (nay là Nhà hát chèo Hà Nội) đúng vào ngày 20-12-1965, trên cơ sở sáp nhập Ðoàn chèo II Trung ương và chèo Kim Lan ở Hà Nội. Ngày 30-12-1965 lễ công bố thành lập Ðoàn chèo Hà Nội được tổ chức tại rạp Ðại Nam (89 phố Huế) có sự chứng kiến của Bộ Văn hóa - Thông tin, Ban Tuyên giáo T.Ư và các cơ quan chức năng của TP Hà Nội, cùng giới văn nghệ sĩ T.Ư và Hà Nội. Tuy mới thành lập nhưng chèo Hà Nội đã có bề dày về hoạt động nghệ thuật chèo trong cả nước. Ðoàn chèo T.Ư II đã phục vụ trong suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp với nhiều vở chèo nổi tiếng như: Tấm Cám, Ai mua hành tôi, Trinh nguyên, Ðường về trận địa, Cô gái chống lầy. Và Ðoàn chèo Kim Lan với những vở như: Thạch Sanh, Sợi Tơ vàng, Quan Âm Thị Kính, v.v. Hai lực lượng nghệ thuật chèo truyền thống ấy hội tụ lại tạo nên một vóc dáng mới, một tư thế mới, chững chạc và vững chắc của Ðoàn chèo Hà Nội với các nghệ sĩ nổi tiếng vào bậc thầy, bậc đàn anh, đàn chị như NSND Hoa Tâm, và các nghệ sĩ Thanh Quý, Nguyễn Thị Thậm, Hoàng Từ, Thanh Tâm, Bích Thuần, Thanh Trầm, v.v.
Với một thời gian rất ngắn chưa đến hai năm, kể từ ngày được thành lập, Chèo Hà Nội đã cho ra mắt những vở làm xôn xao dư luận: Những cô thợ dệt, Mối tình Ðiện Biên, Cô Son, Tú Uyên Giáng Kiều. Chèo Hà Nội đã chiếm được cảm tình của khán giả thủ đô với những vở diễn này tại rạp Ðại Nam, vào những thập kỷ 60 và 70 của thế kỷ trước.
Ðến những năm 80 của thế kỷ 20 chèo Trung ương lao đao với luồng sân khấu cải lương phía nam tràn ra phía bắc, nhất là ở Hà Nội. Người xem lúc đó đổ xô xem cải lương, và cải lương coi như thời thượng, là mốt, là xài sang của dân sành điệu về văn hóa nghệ thuật lúc bấy giờ. Tuồng, chèo đành ngậm ngùi nằm chết dí một nơi vì bị người ta ghẻ lạnh mà tủi thân với số phận của mình. Nhưng rồi không cam chịu, chùn bước, mà nung nấu một ý chí quyết tâm lấy lại danh dự và phong độ chèo truyền thống Thăng Long Hà Nội ngay tại rạp Ðại Nam - một địa chỉ nghệ thuật truyền thống.
Những tác giả đa tài như Lưu Quang Thuận, Lưu Quang Vũ, Trần Huyền Trân, Trung Ðông... cùng các đạo diễn hàng đầu như Dương Ngọc Ðức, Doãn Hoàng Giang, Phạm Thị Thành đã cho ra mắt các vở: Ðêm hội Long Trì, Ngọc Hân công chúa, Ðồng tiền Vạn Lịch và đến đỉnh cao của chèo Hà Nội đó là vở Nàng Si Ta. Như một sự phản ứng dây chuyền tạo nên một không khí nghệ thuật mới trong giới sân khấu cũng như trong khán giả. Nếu trước đó người ta đổ xô đi xem cải lương Sài Gòn, thì nay người ta quay lại và chen nhau mua vé xem chèo Hà Nội. Các cơ quan, các tập thể và cá nhân phải đăng ký trước hàng tuần, phải có giấy giới thiệu mới mua được vé xem chèo tại rạp Ðại Nam và ở Cung Văn hóa Lao động Việt - Xô. Một hiện tượng nghệ thuật hiếm có của làng chèo và sân khấu thủ đô lúc bấy giờ. Ðây không phải là đối phó với sự khủng hoảng nhất thời mà là phương hướng nghệ thuật của Ðoàn chèo Hà Nội. Ðó là nền tảng cơ bản làm cho khán giả của thủ đô yêu chèo Hà Nội. Những diễn viên trẻ đẹp, hát hay cùng kịch bản tốt làm cho vở diễn thành công, tái tạo hình tượng nghệ thuật đẹp trên sân khấu. Bằng những tài năng diễn xuất, sự lao động sáng tạo, cùng với tình cảm của mình dành cho nghề nghiệp, cho nên được người xem mến mộ. Ðó là Lâm Bằng, Quốc Chiêm, Thu Huyền, Thu Hằng, Mạnh Thường, Thúy Mùi, Xuân Hinh, Lan Anh, Xuân Hanh và cả một lớp diễn viên tuổi trung và thanh niên của Ðoàn. Họ đã gắn bó và làm việc hết sức mình cho nghệ thuật chèo trên sân khấu rạp Ðại Nam. Luyện tập xây dựng vở mới cũng ở rạp Ðại Nam, thậm chí có lúc luyện tập khuya không về được, họ ngủ ngay tại rạp. Vở thành công và biểu diễn cũng tại rạp Ðại Nam, vui buồn cũng tại đây. Chèo Hà Nội đã làm việc, biểu diễn tại rạp Ðại Nam từ năm 1965 đến 1995. Thời gian 30 năm ấy, Ðoàn chèo Hà Nội đã dàn dựng công diễn gần trăm vở diễn, với hàng chục nghìn buổi diễn phục vụ cho hàng trăm nghìn lượt người xem ở rạp Ðại Nam. Người xem yêu quý vở diễn và diễn viên chèo và quý cả rạp Ðại Nam. Nghệ sĩ chèo Hà Nội cũng yêu quý khán giả của mình và càng yêu rạp hát Ðại Nam, nơi đã trở thành địa danh, địa chỉ và là thương hiệu "chèo Hà Nội".
Có thể nói, sự gắn bó máu thịt giữa Ðoàn chèo Hà Nội với rạp Ðại Nam và với khán giả không thể nào tách rời được! Ðến những năm 90 của thế kỷ 20, rạp Ðại Nam bị xuống cấp nghiêm trọng, Chèo Hà Nội đã khắc phục khó khăn tiếp tục dàn dựng tại đây những vở chèo hay cho đến nay vẫn còn lưu diễn như: Chuyện tình sinh viên, Hoa khôi dạy chồng, Trương Chiêu Lâm, v.v.
Nhưng từ khi được UBND thành phố Hà Nội cho phép liên doanh với nước ngoài xây dựng lại số nhà 89 phố Huế (tức rạp Ðại Nam) thành địa điểm văn hóa đa chức năng thì sân khấu biểu diễn nghệ thuật tại đây cũng được giao cho chèo Hà Nội quản lý, biểu diễn và tổ chức hoạt động nghệ thuật chèo.
| |
Rồi rạp Ðại Nam bị phá dỡ, Chèo Hà Nội lâm vào cảnh long đong, nhất là mất khán giả. Mỗi lần dựng được tiết mục mới phải đi thuê địa điểm để luyện tập, tổng duyệt và công diễn. Tuy vậy đoàn cũng đã cố gắng dựng diễn được một vài vở mới như Người Thiên Ðô, chèo lịch sử được dư luận đánh giá cao trong việc khắc họa hình tượng Vua Lý Công Uẩn tài ba thao lược quyết đoán có tài chiến lược cao, vượt qua bao cản trở để rời đô từ Hoa Lư về Thăng Long, để lại đất đế đô Thăng Long cho muôn đời con cháu sau này. Việc làm có ý nghĩa đáng ghi nhận của Nhà hát chèo Hà Nội trong hoạt động Kỷ niệm 1000 năm Thăng Long được lãnh đạo và nhân dân thủ đô đánh giá tốt, được ghi công bằng tấm Huân chương Lao động hạng nhì do Nhà nước tặng Nhà hát chèo Hà Nội.
Nhưng sự vất vả lúng túng về địa điểm biểu diễn của Chèo Hà Nội vẫn còn nguyên vẹn, bởi hai đoàn biểu diễn với 70 con người của nhà hát, không biết biểu diễn ở đâu, hoạt động nghệ thuật như thế nào để bảo đảm phục vụ cho nhân dân thủ đô và giải quyết đời sống cho nghệ sĩ và cán bộ, công nhân viên trong cơ chế thị trường, khi giá hàng hóa cứ leo thang, nhất là trong những ngày cuối năm này.
Nhớ lại trong những năm 90 của thế kỷ 20, Chèo Hà Nội đã dành dụm và mạnh dạn mua được số nhà 15 Nguyễn Ðình Chiểu để làm sân khấu nhỏ với sức chứa gần 200 chỗ ngồi và làm trụ sở của nhà hát, nhưng vì diện tích hẹp nên không đủ chỗ cho các bộ phận làm việc, nhất là kho, nếu không có địa chỉ này thì chèo Hà Nội không biết làm việc ở đâu khi mà rạp Ðại Nam đã bị phá dỡ, biến thành quán bia, và bãi trông xe ô-tô, xe máy.
Ðược biết, Sở Văn hóa - Thông tin Hà Nội đã có quyết định giao rạp Ðại Nam cho Ðoàn chèo Hà Nội. Ðó là quyết định đúng đắn, bởi rạp Ðại Nam là nơi chuyên diễn chèo từ xưa tới nay, vì vậy việc giao rạp Ðại Nam cho Ðoàn chèo Hà Nội là hợp lòng dân, hợp nguyện vọng của khán giả yêu chèo ở thủ đô và cũng là tạo điều kiện cho chèo giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc như Nghị quyết T.Ư 5 (Khóa VIII) đề ra.