Chấn chỉnh quy trình thiết kế chương trình và biên soạn sách giáo khoa bậc phổ thông

Thực tiễn SGS đổi mới

Chưa kể sách ngoài luồng, theo thông tin chính thức, năm 2004 cả nước xuất bản 19.695 đầu sách, với 242,7 triệu bản. Sách cho giáo dục-đào tạo là 192 triệu bản. Trong đó, sách ở bậc phổ thông 185,763 triệu bản, 2.443 đầu sách. Chia trung bình cho 12 lớp, mỗi lớp hơn 200 đầu sách mới/lớp (gần 60 đầu SGK và 143 đầu sách tham khảo). Ðây là điều không bình thường trong lịch sử giáo dục. Tỷ số (sách và giáo trình đại học so với sách phổ thông) là 0,033%.

Qua số liệu này, sự "bội thực" sách, dạy và học nặng nề ở bậc phổ thông, còn "đói" sách học chay ở bậc đại học ai cũng hình dung được. Nhìn ra thế giới, SGK ổn định hàng chục năm, thí dụ ở LB Nga và Trung Quốc, đều có chế tài trung bình là mười năm/một lần thay sách. Xin lưu ý, việc đổi mới CT-SGK ở bậc phổ thông hiện nay và các "thiết bị ăn theo" từ Nhà nước dự chi là một tỷ USD bắt đầu từ năm 2001. Doanh số NXBGD ổn định chục năm nay là 100 triệu USD/năm thu thêm của dân do tiền bán sách. Thế nhưng theo Giám đốc Nhà xuất bản Giáo dục còn khoảng bảy trong số 22 triệu học sinh thiếu sách đến trường.

Nội dung sách giáo khoa đổi mới

Các kiến thức ở phổ thông là cơ bản, ít biến đổi và bất biến, còn việc dạy là quá trình phát triển tư duy sáng tạo của học sinh. Xét về mặt khoa học, trên thế giới tồn tại một chuẩn mực kiến thức chung cho giáo dục, nhất là ở bậc học phổ thông. Sự khác nhau ở đây chỉ có thể là chất liệu thuộc các môn học xã hội sử dụng để biên soạn SGK. Trăm nghe không bằng một thấy. Kiểm chứng việc này, tôi đã tìm kiếm CT-SGK của các nước như: Anh, Ðức, Nga, Mỹ, Pháp và Trung Quốc song vô vọng. Kết quả bốn bộ SGK môn hóa tìm được hai bộ SGK một của Mỹ (2002), một của CHLB Nga đang dạy hiện nay, và hai bộ SGK hệ mười năm, hệ 12 năm trước 1975, để tiến hành so sánh nội dung giữa chúng với nhau. Ðồng thời, so sánh với CT-SGK đang sử dụng hiện nay. Xin nêu một số nhận xét sơ bộ:

Thứ nhất là, nội dung bốn bộ SGK này trong suốt 40 năm qua cơ bản là giống nhau và ít thay đổi. Nếu được biên soạn SGK môn học này cũng xin khẳng định, thời gian chỉ cần ba tháng là xong. Nội dung SGK mới biên soạn đương nhiên vừa mang tính kế thừa hai bộ SGK trước 1975, chuẩn mực quốc tế và không hề thua kém sách SGK của LB Nga và Mỹ. Chưa kể hàng chục Hội đồng thí điểm và triển khai CT-SGK mới tại các tỉnh, thành phố trong phạm vi cả nước, hiện có 12 hội đồng quốc gia (biên soạn và thẩm định) được thành lập với hơn 40 thành viên. Công việc được tiến hành vài năm nay, mỗi nhóm làm một "khúc", mỗi năm làm dần từng đoạn kiểu "cuốn chiếu" hay "vừa chạy vừa xếp hàng".

Thứ hai là, sự lệch pha với các bộ SGK trong và ngoài nước kể trên khoảng ba năm. Ðiều này có nghĩa, toàn bộ nội dung môn hóa hệ 10 hay 12 năm trước đây, không rõ lý do gì dồn hết xuống bậc học THCS? Có cần thiết sử dụng một chương trình nặng nề hơn CT-SGK của LB Nga và Mỹ hay không? Tại sao mới chỉ tiến hành so sánh được môn hóa, không so sánh các môn khác như toán, lý, v.v. và tại sao chỉ có so sánh với LB Nga và Mỹ? Các nước phát triển còn lại thì sao? Thật ra bốn bộ SGK kể trên tìm kiếm ở Việt Nam không đơn giản. Nhiều thư viện của ta hoặc là đặt mua rải rác, hoặc không mua; thậm chí thư viện của cơ quan có trách nhiệm nhất về CT-SGK hầu như cũng không có. Vậy, dựa vào đâu để chỉ đạo CT-SGK hội nhập với thế giới? Khi CT-SGK đổi mới chẳng biết nó giống ai? Thẩm định theo cách so sánh với chuẩn mực quốc tế cũng là một trong những cách đánh giá tin cậy và nhanh. CT-SGK là một công trình khoa học mang tầm cỡ quốc gia, lại được chỉ đạo bởi những người và cơ quan thiếu khoa học như vậy là điều không bình thường. Chưa kể tiêu tốn hàng tỷ USD trong quá trình đổi mới, thì cái giá đắt mà dân tộc ta phải trả là 20 thế hệ học sinh với kiến thức chưa chuẩn, không nói là "méo mó" là điều ai cũng hình dung được.

Giải pháp

Từ thực tiễn, mạnh dạn kiến nghị dừng triển khai CT-SGK trong phạm vi toàn quốc, do sự bất cập trong nhận thức và chỉ đạo theo tư duy chưa thật khoa học. Ðiều này đã được bàn luận công khai tại hội thảo có mặt đại diện của Bộ Giáo dục và Ðào tạo do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam tổ chức ngày 18-11-2004 tại Hà Nội. Việc dừng triển khai này sẽ không hề ảnh hưởng việc học tập ở bậc phổ thông hiện nay, nếu bộ CT-SGK cải cách trước năm 2000, thậm chí SGK trước năm 1975 được sử dụng lại để giữ ổn định trong một vài tháng hay một năm. Trong thời gian đó, sẽ giải quyết tổng thể toàn bộ chương trình từ phổ thông đến đại học và chuẩn bị SGK tài liệu cho toàn hệ thống, trên cơ sở kế thừa những mặt tốt CT-SGK đã có ở hai miền nam, bắc trước đây. Kinh phí chỉ cần 100 tỷ đồng, thời hạn đã nêu là đủ để lo CT-SGK không chỉ phổ thông, mà còn sách cho đại học. Xin lưu ý, thiết kế chương trình và chuẩn bị SGK do GS Hoàng Xuân Hãn chủ trì, sau ngày độc lập năm 1945 hoàn thành trong hai tháng. CT-SGK này được sử dụng trong kháng chiến và tiếp tục sử dụng ở miền nam về cơ bản đến năm 1975. CT-SGK do thế hệ trí thức của GS Hoàng Tụy chuẩn bị sau khi giải phóng Hà Nội năm 1955, được sử dụng đến năm 1990.

CT-SGK đang là nỗi lo của toàn xã hội. Một vấn đề có tính nguyên tắc, có chủ trương đúng nhưng phải có đội ngũ thực thi; trước hết là các nhà khoa học am hiểu vấn đề, thiết kế và chỉ đạo thực hiện có tâm và có tầm ngang với nhiệm vụ.

Có thể bạn quan tâm