Cây đèn cù và sự tích trông trăng - Truyện thiếu nhi của NGUYỄN ÐỨC SINH

Hôm ấy vừa đi khai giảng về đến đầu sân, tôi đã thấy ông nội đang cắm cúi mài kéo và dao bên giếng nước.

Vứt vội cái cặp vào bàn, chạy ào ra với ông, tôi hỏi:

- Ông mài dao với kéo làm gì đấy ạ?

Không trả lời ngay, ông nhấc con dao khỏi hòn đá mài, kéo một ống quần lên, đặt nghiêng lưỡi dao sắc lạnh ngang bụng chân thử cạo. Lưỡi dao chỉ mới đưa nhẹ mà đã thấy từng sợi lông chân của ông rơi xuống. Lúc này, ông nhìn tôi tấm tắc:

- Dao phải bén thế mới được cháu ạ! Nội nhật ngày mai ông cháu ta có cái đèn kéo quân để đón Tết Trung thu.

Tôi sung sướng nhảy cẫng lên, trong khi ông bước vào nhà, đặt cái kéo và con dao xuống trường kỷ, nói vọng vào gian trong:

- Chiều nay mẹ thằng Tâm có đi chợ không đấy?

Mẹ tôi vừa thay bộ quần áo đi làm đồng về, nhanh nhảu:

- Dạ, ông dặn gì con ạ!

- Mẹ nó có đi chợ mua cho ông cháu tôi chục tờ giấy mầu, làm cái đèn kéo quân. Nói đoạn ông bảo tôi cầm giấy bút ghi từng thứ cần mua, rồi đưa tờ giấy cho mẹ tôi và dặn:

- Nếu không có giấy bóng kính thì thay bằng loại giấy bóng mờ cũng được.

Mẹ tôi xách cái làn ra khỏi cổng, cũng là lúc ông nội lấy nắm tre đã pha sẵn từ mấy hôm trước ra đo đo chặt chặt. Vừa làm ông vừa bảo: "Tết Trung thu bây giờ trẻ con được cha mẹ mua cho đủ thứ, nhưng ý nghĩa của tết thì không bằng cái thời ông còn niên thiếu". Tôi ngồi tỉ tê nghe ông kể chuyện. Một loáng đã thấy ông pha thanh tre thành nhiều đoạn khác nhau. Túm bốn thanh tre lớn lại (ông gọi đó là thanh cái của đèn), dỗ xuống nền nhà cho bằng, đầu kia ông lấy bút chì đánh dấu. Ngắm nghía chiều cao một lát, rồi ông quyết định chặt. Ông bảo tôi đưa cái đòn kê lại gần. Phập một cái, đoạn tre thừa bắn tung ra, bay vào gầm giường xoay mấy vòng. Cầm một thanh nữa, đánh dấu rồi lại chặt, ông bảo, làm đèn kéo quân cầu kỳ hơn đèn ông sao. Thấy tôi có vẻ ngạc nhiên, ông giải thích: Ðèn kéo quân, người xưa còn gọi là đèn cù. Loại đèn này làm theo quy cách ngoài vuông trong tròn. Ðại để là bốn mặt ngoài của đèn được dán giấy bóng kính, coi như bốn màn ảnh. Bên trong chính giữa là một cái trục dựng thẳng đứng, hai đầu được chốt bằng hai cây kim nhọn. Trục đèn làm bằng một thanh tre thẳng, vót tròn chỉ nhỉnh hơn chiếc xe điếu. Trục dài ngắn tùy thuộc vào đèn cao hay thấp. Có thể là năm, sáu mươi phân, có khi là cả mét. Chung quanh trục đèn kéo quân, người ta sắp xếp, gá buộc những vòng tròn quanh thân trục. Mỗi vòng tròn là một tầng đèn. Ðể cho có nhiều hình phong phú, người ta lồng và cắt dán đến bốn, năm tầng. Quanh vòng tròn ấy, được dán các hình người, thú, cảnh vật to nhỏ theo các truyện cổ tích như Tây du ký, Tam quốc, Quan công có bộ râu dài, hay hình các con vật phỏng theo tranh dân gian như đám cưới chuột. Và đặc biệt, không thể thiếu những người lính khố xanh, khố đỏ đội nón như trong quân bài tam cúc. Chính vì vậy mà người ta gọi là đèn kéo quân. Khi đèn kéo quân được đốt lên, nhờ sức đẩy của ngọn nến thắp bên trong mà trục đèn quay tròn, các hình thể cũng quay theo, hiện ra bốn mặt của cây đèn với nhiều hình thù vui mắt, nên đèn kéo quân còn gọi là đèn cù. Lúc đó ngồi ngắm trăng, phá cỗ, không chỉ trẻ con, mà người lớn cũng thích thú.

Ðang say sưa nghe ông kể, tôi đã thấy bọn thằng Quảng, cái Thoa từ ngoài ngõ rối rít chạy vào. Bọn chúng kháo nhau, đứa nào cũng được bố mẹ mua đèn để đón Trung thu.

Không biết thông tin lan ra từ đâu, bọn trẻ trong xóm biết ông tôi làm đèn kéo quân to. Lúc này, mẹ tôi cũng vừa đi chợ về, vui vẻ:

- Ông ơi, giấy mầu đây, con thấy bảo làm đèn kéo quân phải dùng cả giấy trang kim nữa mới đẹp nên con mua thêm mấy tờ, gói cả ở trong đấy ạ.

Ông đón bọc giấy từ tay mẹ, kéo cái khung đèn chỉnh lại lần cuối và giục tôi lấy mấy lẻ gạo nếp, sang nhà bác Luyện xay bột, nấu hồ để dán đèn.

Ngồi xem ông cắt giấy dán đèn, bọn trẻ lao xao hỏi ông đủ điều. Thằng Lâm liến thoắng hỏi:

- Ông ơi! Sao người ta còn gọi Tết Trung thu là Tết trông trăng ạ?

Quay sang thằng Lâm, ông cười hiền lành:

- Ngày ông còn bé như các cháu bây giờ đã nghe kể rằng, năm đó vào đêm rằm tháng Tám, trăng thanh gió mát, nhà vua dạo chơi ngoài thành đến mãi khuya. Chợt có ông già đầu tóc bạc phơ chống gậy đến bên nhà vua. Trông cử chỉ, nhà vua đoán ngay đó là vị tiên giáng thế. Cụ già kính cẩn chào nhà vua và hỏi:

- Bệ hạ có muốn lên thăm cung trăng không?

Nhà vua đồng ý. Ông cụ chỉ chiếc gậy lên trời, hóa phép ra một chiếc cầu vồng, một đầu giáp cung trăng, còn một đầu nối xuống đất...

Cả bọn chúng tôi ngồi há hốc mồm, dỏng tai nghe như nuốt từng lời. Hạ cái kéo xuống đám giấy mầu ngổn ngang dưới nền nhà, ôn kéo điếu bát lại gần hút một hơi dài. Vuốt mái tóc bạc về phía sau, ông kể tiếp:

- Tiên ông đưa nhà vua trèo lên cây cầu vồng, chẳng bao lâu đã đến được cung trăng. Phong cảnh nơi đây thật đẹp, một vẻ đẹp khác xa trần thế. Các tiên nữ xiêm y lộng lẫy nhảy múa vô cùng vui vẻ. Ðang say trong cảnh đẹp thì tiên ông lại đưa nhà vua vào cung điện. Cảnh sắc ở đây càng tráng lệ hơn. Về tới trần thế nhà vua còn luyến tiếc cảnh đẹp trên cung trăng với những giờ phút đầy thơ mộng ấy. Ðể kỷ niệm một lần trên cung trăng, nhà vua đặt ra Tết Trung thu hằng năm vào đêm rằm tháng Tám. Vì vậy tết này còn được gọi là Tết trông trăng. Cũng vì vậy mà trăng còn được in trên bánh, vẽ trên đèn...

Thằng Lâm có vẻ khoái chí nhất vì nó là người đưa ra câu hỏi để được ông kể cho nghe về sự tích Tết Trung thu. Cái Thoa thì cứ thán phục mãi vì chuyện gì ông cũng biết. Nó lại nằng nặc đòi ông kể tiếp, khiến thằng Quảng phải nạt nó:

- Từ từ, không được kéo áo ông kẻo ông dán hỏng con ngựa rồi kìa!

Chiều lũ trẻ, ông lại hồ hởi:

- Như ban nãy ông kể, đức vua du ngoạn và được thưởng thức những vũ điệu tuyệt vời của các tiên nữ. Theo sách thiên văn của người xưa thì mặt trăng là thái âm, còn mặt trời là thái dương. Thái âm là khí lạnh, thái dương là khí nóng kết tinh mà thành. Mặt trăng thuộc quyền của vị Thái Âm Nữ thần. Nơi Nữ thần ngự trị toàn là ngọc trong như pha lê, hào quang chói lọi, nhưng lúc nào cũng giá lạnh như băng. Thái Âm Nữ thần cai quản một số các tiên nữ và linh vật. Trong số linh vật này có hai con là Thiềm Thừ và Ngọc Thỏ. Thiềm Thừ là một giống cóc, đầu có sừng, bụng có hình chữ bát mầu đỏ. Tiên nữ Thiềm Thừ là nàng Hằng Nga vợ của chàng Hậu Nghệ. Còn Ngọc Thỏ, sự tích kể rằng: Ngày xa xưa lắm, vào năm mất mùa, người và vật đều phải nhịn đói. Các loài vật khó kiếm thức ăn nên chúng tàn sát lẫn nhau. Loài thỏ yếu đuối không có khí giới tự vệ, không dám thò ra ngoài kiếm ăn, đành nằm một chỗ kín đáo và cùng nhịn đói. Ðã đói lại rét, chúng rủ nhau tới nằm quanh một đống lửa, mắt con nào cũng ươn ướt. Trước tình cảnh não nề đó, vì thương đồng loại, một con thỏ đã nhảy vào đống lửa tự thiêu để các con khác có cái ăn cho đỡ đói. Vừa lúc ấy Ðức Phật đi qua. Cảm động trước nghĩa khí của con vật, ngài nhặt nắm xương tàn của nó hóa phép thành hình khác toàn bằng ngọc sáng, sau đó đưa lên cung trăng, xin cho nó một viên thuốc trường sinh rồi nói với Thái Âm Tiên nữ cho nó được ở lại cung Quảng Hàm. Kể từ ngày đó, hai con Thiềm Thừ và Ngọc Thỏ trở thành những linh vật. Vậy nên dân gian mới có câu: "Con cóc là cậu ông trời/Ai mà đánh cóc thì trời đánh cho". Vào những năm hạn hán, hễ nghe thấy tiếng cóc nghiến răng thì biết trời sắp đổ mưa. Vì đó là tiếng cóc đòi trời làm mưa đấy...

Thấy ông vui, Thằng Quảng, thằng Lâm được thể tranh nhau hỏi dồn:

- Thế còn chuyện chú Cuội và cây đa thì sao hả ông? Ông kể tiếp cho chúng cháu nghe đi!

- Hà! Hà!... ông ngừng tay kéo, chỉ vào ấm trà, cả bọn chúng tôi tranh nhau rót nước mời ông. Nâng chén trà đặc quánh uống một ngụm với vẻ thư thái, ông nhoẻn cười hóm hỉnh:

- Cây đa trên mặt trăng mà dân gian thường gọi chính là cây đan quế hay cây đan thần. Cây này cao trên một trăm thước, gốc lớn vô cùng, đường kính ước vài ba trượng. Cây sống hàng ngàn vạn năm, gỗ và vỏ rắn như thép. Ở mặt đất nhìn lên ta còn thấy bóng đen của người bên gốc cây. Người bên cây đa thần ấy chính là chú Cuội. Nói đến Cuội, người Việt Nam ta thường nhớ đến câu: Chú Cuội ngồi gốc cây đa/Ðể trâu ăn lúa gọi cha bời bời/Cha còn cắt cỏ trên trời/Mẹ còn cưỡi ngựa đi mời quan viên. Sự tích chú Cuội các cháu nghe chưa nhỉ? Ông nhìn chúng tôi thăm dò rồi kể tiếp:

- Cuội là kẻ đi nói dối cha về nhà nói dối chú. Suốt đời chỉ đánh lừa người. Một lần Cuội đánh lừa được lão Trượng hiền lành. Lão Trượng đã cho Cuội một cây đa thần, có thể dùng lá để chữa cho người chết sống lại. Lão Trượng dặn Cuội mang về trồng phải luôn tưới nước cho cây tươi tốt. Cuội nghe lời lão Trượng mang cây đa về trồng ở phía đông nhà, và dặn vợ hằng ngày phải tưới nước. Lão Trượng còn dặn Cuội: Cây đa thần kị nước tiểu người. Nếu trồng cây ở hướng đông thì mọi người phải đi tiểu về hướng tây, bằng không cây sẽ bay lên trời. Về nhà Cuội dặn vợ và người nhà: "Có tiểu thì tiểu đằng tây, chớ tiểu đằng đông cây dông lên trời". Hằng ngày Cuội vào rừng đốn củi, vợ Cuội ở nhà mải mê công việc đã quên không tưới cây. Thấy Cuội về đến ngõ, chợt nhớ là mình chưa tưới cây, định lấy nước nhưng sợ Cuội phát hiện sẽ mắng, nên vội vàng chạy tới gốc cây... Nàng đã phạm vào điều cấm! Cây đa thần từ từ bật gốc bay lên trời. Cuội nhìn thấy thế, sẵn có chiếc búa, liền móc vào gốc cây mong giữ được cây ở lại, nhưng chính Cuội lại bị kéo theo cây lên cung trăng từ đấy.

Nghe ông kể tới đây, cả bọn chúng tôi cùng im lặng nhìn nhau.

Lúc này, đèn kéo quân cũng đã dán xong. Chỉ còn công đoạn lắp đặt các chi tiết bên trong của mỗi tầng đèn. Việc này đòi hỏi phải thật nhẹ tay, khéo léo và chính xác. Ðặt hai trục đèn được chốt bằng hai cây kim vào chỗ định vị, ông cẩn thận ngắm nghía rồi đi quanh một vòng. Ôi! Các tầng đèn chuyển động kéo theo những hình thù xoay tròn kỳ ảo. Nhìn các tầng đèn được dán đủ mầu, ông nói với chúng tôi, dường rất mãn nguyện: Tết Trung thu có nhiều cuộc vui lắm! Nào là cuộc vui riêng trong gia đình, nào là cuộc vui nơi công cộng. Người lớn có trò vui của người lớn, trẻ con có trò vui của trẻ con. Trong ngày Tết Trung thu, người ta bày cỗ có bánh trái hình mặt trăng, có nhảy múa ca hát, nhiều nơi còn tổ chức thi cỗ, thi đèn, múa lân tưng bừng náo nhiệt lắm.

Bây giờ thì ông tôi đã đi xa. Lũ trẻ ở xóm chúng tôi đều đã trưởng thành, mỗi người một phương lập nghiệp. Nhưng mỗi khi Trung thu đến, chúng tôi lại nhớ về cây đèn kéo quân và nhớ ông tôi da diết!

Có thể bạn quan tâm