Lịch sử biến thiên theo dòng thời gian. Con người phải nếm trải bao ngọt bùi cay đắng. Cây trái vẫn luôn xanh tươi và tự nhiên khoe hương, tỏa sắc. Số phận của cây chè trên đất Lâm Đồng cũng hồn nhiên đi qua thời gian, bước theo nhịp chân lịch sử. Vẫn hồn nhiên sinh sôi nảy nở, suy thoái và phát triển ngay bên cạnh từng số phận con người trên vùng đất bazan cao nguyên.
Năm ngoái năm kia, người ta ồn ào lên về chuyện ai đó phát hiện ra một vài cây chè cổ có tuổi mấy trăm năm trong những khu rừng già heo hút ở xứ sở của người Châu Mạ. Vậy nghĩa là có thể đặt giả thiết, ở đất nam Tây Nguyên hàng trăm năm trước đã là nơi sinh trưởng của cây chè? Hoặc chí ít là, lịch sử của vùng chuyên canh chè Lâm Đồng không phải chỉ có chưa đầy trăm năm tuổi. Phát hiện ấy là một bất ngờ thú vị , mặc dù chưa có ai và ngành nào đứng ra chứng thực…
Lịch sử cây chè ở cao nguyên
Lịch sử canh nông ở địa phương viết rằng, cây chè xuất hiện đầu tiên trên đất Lâm Đồng là vào đầu năm 1927. Người có công du nhập cây chè và nghề làm trà là một công dân người Pháp, tên của ông là Romoeville. Từ thời điểm này, cây chè bắt đầu được trồng ở vùng Cầu Đất - Đà Lạt nơi đóng sở trà do Công ty trồng trọt nhiệt đới của người Pháp lập ra. Trong chương trình khai thác thuộc địa, từ năm 1925 đến 1939, Khâm sứ Trung kỳ đã ráo riết triển khai thực hiện nghị định về việc chuyển nhượng đất ruộng rẫy của đồng bào thiểu số, hợp thức hóa việc chiếm đất của người Thượng trên cao nguyên Trung phần. Cùng với việc đất đai của đồng bào bị cướp trắng là 500 ngàn héc-ta đồn điền, nông trại của các ông chủ Pháp và Nam Triều cũng ra đời từ thời điểm đó.
Đến 1954, ở Đồng Nai Thượng đã có tới 409 đồn điền lớn nhỏ, phần lớn là trồng trà và cà phê. Càng ngày, cây chè càng chứng tỏ được sự thích nghi với môi trường sinh thái ở vùng đất mới này. Do vậy, Nha Khảo sát canh nông Đông Dương đã có nhiều nghiên cứu và hỗ trợ cho việc phát triển diện tích trồng chè trên xứ sở mà nhà bác học người Pháp A.Yersin có công “khai phá”. Mất đất, người dân bản xứ trở thành những người nông phu rẻ mạt trong các đồn điền. Với học phí trả bằng mồ hôi, nước mắt và cả máu xương, họ đã học từ các ông chủ của mình nghề canh tác và chế biến trà. Nghiệp trà ở đất bazan ra đời trong dòng chảy lịch sử ngập đầy cả hương vị cay đắng lẫn ngọt bùi…
Cứ nói đến trà là người ta nhắc ngay tới vùng đất cao nguyên B’Lao xưa tức Bảo Lộc ngày nay. Không nhắc sao được khi gần một thế kỷ qua cây trà cùng với người dân nơi đây chia sẻ chung số phận. Ở xứ sở này, cây trà lặng lẽ với thời gian, len vào cuộc sống của mỗi con người, của mỗi gia đình và mỗi ngõ phố, góc vườn. Nó góp phần minh chứng cho cái “đạo trà Việt” trường tồn, bất biến. Người làm trà B’Lao đã bao lần lên hương cũng bao phen khốn đốn với nghề của mình…
Từ vùng Cầu Đất trên độ cao 1.800 mét, theo quá trình hình thành và phát triển, theo nhu cầu khai thác đất đai và nhân công bản xứ của giới nhà giàu người Pháp mà cây chè lan dài xuống vùng Bảo Lộc, Di Linh theo lộ trình mới mở của con đường từ Đà Lạt đi Sài Gòn thời thập niên 30 của thế kỷ trước. Chè bắt đầu làm quen với đất B’Lao từ các đồn điền của người Pháp như đồn điền Felit B’Lao, B’Lao Sierré…rồi sau đó là sự ra đời của các trang trại, các rẫy trà, vườn trà được trồng trong các hộ gia đình. Từ đó, ở vùng đất này đã xuất hiện một tầng lớp cư dân đông đảo chuyên sống bằng nghề trồng chè hoặc chế biến trà hương. Một thế giới riêng của những người làm nghề trà trên đất bazan đã khai mở từ gần 80 năm trước.
Thương hiệu chè B'Lao
Ngay từ những ngày đầu dựng nghiệp trà trên quê hương mình, những người làm trà ở vùng đất này đã chọn ngay địa danh B’Lao để đặt tên cho sản phẩm của họ. Nhờ tiếng tăm đã được khẳng định của “thương hiệu B’Lao” mà các danh trà sau này, ngoài tên gọi cơ sở sản xuất đều dùng thêm chữ “trà B’Lao” trên bao bì sản phẩm, cho dù danh trà của họ có nổi tiếng đến mấy. Đó có thể là trà B’Lao Quốc Thái, trà B’Lao Đỗ Hữu hay Trâm Anh, Rồng Vàng, Thiên Thành, Ngọc Trang…
“Nếu không ghi chữ B’Lao vào bao bì thì sản phẩm như mất đi phần bản sắc quan trọng nhất và rất khó tiêu thụ” - chủ một danh trà đã khẳng định như thế. Điều đó minh chứng thêm cho sự hòa quyện máu thịt giữa con người, xứ sở và sản phẩm ra đời trên miền đất ấy.
Đồng thời, một lý do quan trọng khác là trà B’Lao mang dấu ấn đặc trưng riêng trong phong vị chinh phục thói quen thưởng trà của người tiêu dùng ở xứ “Đàng Trong”.
Ở xứ “Đàng Ngoài” có trà Bắc Thái nức tiếng từ lâu đời. Nhưng do “gu” của khách thưởng trà mỗi miền khác nhau nên cách sao chế cũng không giống nhau. Trà Bắc Thái thường sao suốt và không ướp hương. Còn trà B’Lao thì phần lớn đều luộc qua, ép bớt nước đắng rồi mới sao khô rồi ướp hương, đóng gói. Hương ướp trà ở B’Lao chủ yếu là hoa sói, hoa nhài. Đặc biệt, loài hoa sói rất thích hợp với khí hậu Bảo Lộc. Hạt hoa sói nhỏ, trắng xanh như hạt gạo nếp và hương của nó rất “ăn” với cành trà. Do cách sao tẩm, chế biến khác nhau nên trà B’Lao có vị ngọt và thơm chứ không đậm chát như trà Bắc Thái.
Một không gian thưởng trà ở Lâm Đồng.
Nghề làm trà ở đất B’Lao này đã thành nghiệp cha truyền con nối. Những ông chủ của thế hệ đầu tiên của các danh trà nổi tiếng trên xứ sở này hầu như đã về với đất. Vẫn là những tên gọi cũ nhưng những người kế nghiệp đã sang đến đời thứ ba, thứ tư. Ở cao nguyên Bảo Lộc, chục năm lại đây xuất hiện rất nhiều doanh nghiệp - doanh nhân trong và ngoài nước đến đây làm trà. Họ là những ông chủ Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan…đến mượn đất, mượn nhân công, mượn cây trà xứ này để làm giàu và họ đã giàu lên rất nhanh. Gần 1.500 cơ sở sản xuất chế biến trà lớn nhỏ là thống kê con số ở “đô thị trà” Bảo Lộc. Trà B’Lao không chỉ còn là sản phẩm nội tiêu mà đã tỏa hương khắp các thị trường thế giới. Tuy nhiên, người dân Bảo Lộc và khách thưởng lãm trà nhiều miền khi nhắc đến trà B’Lao thì trong tâm tưởng của họ bao giờ cũng hiện lên hình ảnh những trang trại trà, xưởng trà, phố trà danh tiếng đã xuất hiện từ mấy mươi năm trước. Những tên gọi thân thuộc gắn với những ông chủ trà xuất thân từ những người phu đồn điền từ cái thưở nước nhà còn dưới ách nô dịch. Họ được coi là tiền bối trong công cuộc dựng nghiệp trà ở xứ B’Lao…
Festival trà đầu tiên ở Việt Nam
Trong số 33 tỉnh trồng chè với tổng diện tích trên 125 ngàn héc-ta trong cả nước thì Lâm Đồng được xác định là vựa trà Việt Nam. Diện tích gần 26 ngàn héc-ta, sản lượng trên 182 ngàn tấn, chè Lâm Đồng chiếm 21% diện tích và 27% sản lượng chè toàn quốc. Hàng trăm doanh nghiệp và hàng cơ sở sản xuất, chế biến chè với công suất 150 ngàn tấn chè búp tươi hằng năm. Đó là những con số để góp phần khẳng định rằng, chuyện làm chè ở Lâm Đồng là chuyện lớn và cây chè được coi là cây trồng chủ lực của địa phương. Và, việc Festival trà đầu tiên ở Việt Nam được tổ chức ở tỉnh Nam Tây Nguyên này cũng không có gì là “không phải” cả. Suy ngẫm từ những con số thống kê ý nghĩa nói trên, tôi đã đi tìm nơi đầu tiên “phát tích” nghề canh tác và chế biến trà trên đất Lâm Đồng…
Chỉ cách trung tâm Đà Lạt có hơn chục cây số, nhưng không gian ở đây khác hẳn. Cái không gian đậm “chất trà”, vừa mang tính hoài niệm của thuở xưa khai đất vừa thể hiện sinh động những hình ảnh của sự bứt phá mới. Ngày xưa, nơi đây gọi là Sở trà Cầu Đất, một sở trà của Công ty trồng trọt nhiệt đới do người Pháp lập ra tại Đông Dương. Còn bây giờ, tên gọi của doanh nghiệp mới trên nền đất cũ ấy là Công ty Cổ phần chè Cầu Đất. Ở Lâm Đồng, nếu gọi B’Lao là “thủ đô chè” thì Cầu Đất có thể coi là “nguồn cội chè”. Chè phủ xanh núi đồi, chè mênh mang bất tận. Ở nhà máy chế biến trà có tuổi gần 100 năm này, dù nhiều lần thay tên đổi chủ nhưng vẫn còn giữ được khá nguyên vẹn giàn máy sản xuất chè theo kỹ thuật cơ khí hồi đầu thế kỷ trước. Đây là dây chuyền sản xuất chè đen của Pháp gồm 6 cỗ máy được coi là cổ nhất Đông Dương hiện nay với các chức năng từ vò, sấy, sàng, lên men, đến đánh bóng, làm sạch, đóng gói thành phẩm. Gần trăm năm rồi, những cỗ máy cũ kỹ ấy vẫn đều nhịp vận hành như nhắc nhở về một miền hoài niệm khó phai mờ trong ký ức về một thời đã qua.
Những người kế thừa và tiếp nối nghiệp trà ở Cầu Đất hôm nay cũng đã thực thi ý tưởng khôi phục và bảo tồn nguồn gene cho một quần thể những cây chè cổ. Đây là loại chè Shan được người Pháp du nhập về Sở chè này từ những thập kỷ đầu của thế kỷ trước.
Mỗi cây chè cổ thụ có thước đo vòm lá từ 2 đến 4 mét và số đo mỗi gốc chè cũng không dưới 0,5 mét. Thời gian non một thế kỷ đã đi qua trên mỗi thân chè. Rêu phong vày bám lên những lớp vỏ xù xì, già cỗi. Màu bạc phếch của địa y bật nổi dưới những tán lá xanh dễ làm khách thưởng lãm liên tưởng về giá trị vĩnh hằng của cõi nhân sinh.
Dù đã thay thế hầu hết diện tích chè giống mới nhưng Công ty chè Cầu Đất vẫn thủy chung giữ lại 127 mẫu tây chè cổ tiếp tục chăm bón, sản xuất và chế biến, trong đó có 1 mẫu được chăm sóc theo chế độ đặc biệt để phục vụ khách tham quan. Tham vọng của những người làm trà Cầu Đất là đón du khách ghé thăm vườn chè cổ, ngắm những cỗ máy sản xuất chè đen có tuổi 80 năm, uống ly chè thơm sóng sánh màu mật ong ngay dưới gốc chè Shan và nghe kể về những ngày tháng xưa cũ với những bậc cao niên trong nghề làm trà ở xứ Cầu Đất…
Gần một thế kỷ trước, khi đưa giống trà Shan vào canh tác thử nghiệm trên cao nguyên Cầu Đất, chắc có lẽ ông Romoeville cũng không dám nghĩ rằng loại trà này lại trường thọ đến vậy. Dù sao thì những người tiếp nối nghiệp trà ở đất này cũng gửi lời cảm ơn đến mồ ma của bậc trưởng bối từ nước Pháp đến đây non thế kỷ trước. Người đã chọn, đất đã ưa thì cây trái cứ hồn nhiên sinh tồn và phát triển, dù trang sử của mỗi quốc gia hay thân phận của mỗi con người có lúc thịnh lúc suy. Đời của mỗi người thì đã qua và rồi lại sẽ qua, nhưng ở đất bazan cao nguyên này, nghiệp chè vẫn trường tồn mãi mãi.