Câu chuyện cảm động về một người Anh hùng

Câu chuyện về Anh hùng Liệt sĩ Lê Thị Riêng, nguyên Trưởng ban Phụ vận khu Sài Gòn - Gia Ðịnh, Hội phó Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng, Ủy viên ban T.Ư Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền nam Việt Nam dưới đây được trích trong tập sách đó.

Cuốn nhật ký

Chị Lê Thị Riêng sinh năm 1925, trong một gia đình nông dân nghèo tại xã Vĩnh Mỹ, huyện Giá Rai, tỉnh Bạc  Liêu. Mới hai, ba tuổi đã mồ côi mẹ. Ông ngoại lấy vợ hai. Chị được đưa đến gia đình ông Mười Một nuôi. Từ nhỏ, chị đã phải làm việc vất vả cực nhọc, vừa giặt giũ cơm nước vừa chăm sóc các em. Chị sinh năm Ất Sửu, vì thế hồi nhỏ, mọi người quen gọi là Hai Ngưu. Năm 16 tuổi, ông bà Mười Một định gả chị cho anh tá điền trong nhà. Biết mình phải mang ơn, khó có thể cưỡng lại ý định đó, chị bỏ nhà đi tìm việc làm tại một xưởng dệt nhỏ.

Tại đây, chị được giác ngộ cách mạng và trở thành chiến sĩ cách mạng với tên mới "Hai Riêng". Tháng Tám năm 1945, Việt Minh nổi dậy, thị xã Rạch Giá cờ đỏ rợp trời, người dân nô nức kéo nhau đi cướp chính quyền. Trong dòng người đó có chị. Chị đã trưởng thành trong phong trào của miền nam, được bầu là Phó hội trưởng Hội Phụ nữ Cứu quốc miền đông những năm 50.

Trong thời gian công tác ở chiến khu Ð, chị gặp đồng chí Lê Văn Ba, còn gọi là Lê Trọng Tam, sinh năm 1926, quê gốc ở Long Xuyên. Anh Ba xuất thân từ một nhà giáo. Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, anh tham gia giành chính quyền ở Rạch Giá, được bầu là Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính tỉnh Rạch Giá. Năm 1951, anh có mặt trong Ðoàn Quân  dân - chính miền nam ra Việt Bắc rồi tiếp tục trở về nam hoạt động.

Ngày 4 tháng 2 năm 1954, tại chiến khu Ð, lễ cưới của anh chị được tổ chức có mặt đông đủ các đồng chí lãnh đạo trong phân khu và bạn bè. Và sau đó lại mỗi người một nơi trong hoàn cảnh bí mật. Cuối năm 1951, sau đợt đi công tác dài ngày, chị Riêng trở lại khu rừng cũ nơi đã chia tay với anh. Trở lại nơi này, chị phải đi bộ một chặng đường dài đầy nguy hiểm, vượt qua bốt đồn giặc dày đặc, vượt qua đêm tối, sình lầy... để mong chóng được gặp chồng, để chia sẻ bao nỗi niềm thương nhớ sau những tháng ngày xa cách. Chị ngồi ngắm nghía bộ quần áo mới vừa sắm cho anh, cặm cụi khâu chiếc màn mà từ khi cưới hai người chưa sắm được. Nhưng đến nơi, chị nhận được câu trả lời của đơn vị: "Anh ấy đi công tác chưa về".

Nhật ký chị Riêng viết:

"Mãi tới ngày 29 tháng 4 năm 1961, được các đồng chí cấp ủy mời đến. Câu nói đầu tiên của các anh mà tôi bắt buộc phải nghe, mãi đến nay, mỗi khi nhớ đến tôi còn thấm sợ: "Xin báo cáo chị một tin buồn, anh ấy đã hy sinh". Tôi phải nhắm mắt lại để tránh một sự thật đau thương, mong rằng tất cả những người đàn bà trên thế gian này, không ai phải nghe câu nói ấy đến với mình.

Bảy năm chung sống, từ ngày 3-5-1954, đến tháng 4 năm 1960, bao tình sâu nghĩa nặng của vợ chồng tôi đã kết thúc trên đời. Còn lại hai con đang sống xa mẹ. Chúng là nguồn hạnh phúc, là sức mạnh chiến đấu giúp tôi hăng hái đi lên không bao giờ chùn bước. Tôi sẽ chiến đấu cho hạnh phúc không tan, cho con sớm gần mẹ, cho người người không còn tang tóc chia ly".

Chiếc kẹp tóc

Chị Duy Liên, bạn tuổi thơ, bạn chiến đấu và bạn tù của chị Riêng kể: Những năm 60, chị Riêng được cử vào nội thành công tác, tham gia xây dựng cơ sở cách mạng ở Biên Hòa - Chợ Lớn. Chị tích cực xây dựng tờ báo Phụ nữ Giải phóng và là một trong những người trực tiếp lãnh đạo phong trào phụ nữ đấu tranh, biểu tình chống Mỹ, Diệm ở nội đô. Một lần từ Phú Thọ Hòa, chị hẹn gặp tôi, Trưởng ban Phụ vận ở Ða Kao để cùng bàn công việc. Vừa từ xe lam bước xuống, chị bị một tên chiêu hồi nhận ra.

Tên Ca Vinh Phối đã chỉ điểm để ba tên mật vụ khác đón bắt. Hôm đó là ngày 9-5-1967. Trong tù, bọn địch dùng mọi cực hình tra tấn dã man hòng khuất phục chị. Chúng đánh đập, tra điện, đốt cháy trụi những ngón tay của chị. Những ngón tay ngày nào chị từng dệt vải, viết báo, viết thư nay đen tím, phồng rộp, đau đớn, nhức nhối đến nỗi không cầm nổi lược, búi được tóc của mình. Hàng trăm ngày đêm, địch tra tấn, đánh đập tàn khốc nhưng chúng không lấy được một lời khai của chị. Bất lực trước tinh thần bất khuất ấy, đêm mồng 2 Tết Mậu Thân, khi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân miền nam đồng loạt nổ ra, bọn địch đã đưa chị cùng nhiều chiến sĩ cách mạng khác trên chiếc xe bịt bùng chở tù nhân đi thủ tiêu.

Bà Phùng Ngọc Anh nguyên là cán bộ tự vệ thành, người chứng kiến cái đêm khủng khiếp ấy đã kể lại tấm gương hy sinh bất khuất của liệt sĩ Lê Thị Riêng và câu chuyện về chiếc cặp tóc nhỏ mầu đen.

"Hôm bọn địch đưa tù nhân đi thủ tiêu, trên xe có chị Lê Thị Riêng, anh Trần Văn Kiểu, tôi và một số đồng chí khác. Ði sau là một chiếc xe chở bọn lính trang bị đầy đủ súng ống. Hai chiếc xe lăn bánh từ Tổng nha cảnh sát chạy vô hướng Chợ Lớn. Ngồi trên xe, chị Riêng nói với tôi: "Lực lượng ta nổ súng tiến công. Chúng đang tìm cách hãm hại mình. Ngọc Anh phải sẵn sàng đối phó, nghe em. Trong tình huống này phải xứng đáng là một người cộng sản". Anh Chín Kiểu dự đoán: Bên ngoài ta tiến công vô, bên trong bắn ra. Thế là nó tìm cách thủ tiêu mình một cách hợp pháp".

Ðúng như dự đoán, chiếc xe đột nhiên dừng lại ở bốt Bà Hòa. Bọn lính trên chiếc xe sau hò nhau nhảy xuống. Biết có điều chẳng lành, tất cả mọi người trên xe đồng thanh hô: Ðả đảo tàn sát ! Ðả đảo khủng bố ! Hồ Chí Minh muôn năm !

Bọn địch dàn hàng ngang sau xe, đồng loạt nổ súng. Khói thuốc mù mịt. Bà Ngọc Anh xúc động: "Lúc đó tôi bị thương vào đùi, máu thấm ướt. Chị Riêng vừa hô, vừa đạp cửa xe định xông ra nhưng không nổi. Bọn địch nghe tiếng động, chúng bắn tới tấp. Tôi ngất đi, khi tỉnh dậy thấy chung quanh im lặng, tất cả đã hy sinh! Tôi thấy chị Riêng đang nằm đè lên che đạn cho tôi. Máu từ đầu của chị chảy ướt đẫm, tôi thấy âm ấm bên má. Tôi quơ tay định rút chiếc khăn rằn trên cổ chị để làm kỷ niệm nhưng sức yếu không rút được, chỉ kịp rút chiếc kẹp tóc trên đầu rồi nắm chặt trong tay.

Lúc đó đã gần nửa đêm, bỗng nghe có tiếng bước chân, tôi bèn nằm im giả chết. Một lúc sau, có chiếc xe hồng thập tự chạy đến. Bọn địch khiêng tù nhân quẳng lên xe. Chiếc xe chạy đến nhà xác của nhà thương Chợ Quán. Một bác sĩ trên xe phát hiện tôi còn sống đã đưa vào nhà thương tù. Vết thương lành, tôi được bọn địch trả lại Tổng nha cảnh sát cho đến ngày trao trả tù binh...".

Câu chuyện của những người bạn tù, những dòng nhật ký còn đang viết dở trong đó lấp lánh huyền thoại về người mẹ, là thông điệp của quá khứ gửi tới thế hệ sau về một tấm gương hy sinh cao cả của người liệt sĩ anh hùng.

Trần Thanh Hằng
(Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam)