Cá cơm có nhiều chủng loại như cá cơm trắng, cá cơm ruồi, cá cơm săn, cá cơm nước ngọt... tập trung chủ yếu ở vùng biển Phú Quốc (Kiên Giang) và một số tỉnh miền trung như Quảng Ngãi, Phú Yên, Bình Định, Nha Trang. Cá cơm ruồi có sản lượng cao nhất, có năm đánh bắt được hàng chục ngàn tấn. Ngoài nước mắm cá cơm, gần đây cá cơm khô hai nắng của Việt Nam cũng được khách hàng thế giới ưa chuộng do màu sắc đẹp và ngon.
Yếu từ bảo quản, chế biến đến tiếp thị
Ông Nguyễn Ngọc Đức, Phó giám đốc Công ty TNHH Đệ Khang Phú Thành Seafood cho biết, cá cơm Trung Quốc, Thái-lan, Argentina nổi bật và chiếm lĩnh rất lớn tại thị trường Hàn Quốc, Nga, Nhật Bản. Gần đây, cá cơm Thái-lan đang chiếm đa số thị phần tại thị trường Hàn Quốc vì chất lượng hơn hẳn cá cơm Việt Nam.
Theo một khách hàng Hàn Quốc của Công ty TNHH Đệ Khang Phú Thành, cá cơm Thái-lan là cá cơm trắng, khi khô có màu sắc không đẹp và thịt bở, không ngon bằng cá cơm ruồi của Việt Nam.
Nhiều người cho rằng chất lượng cá cơm Việt Nam không ổn định. Nguyên nhân là cơ sở vật chất của các vựa ngay vùng chế biến nguyên liệu còn sơ sài. Thời gian từ khi đánh bắt tới lúc vô bờ để hấp kéo dài đến sáu giờ nên cá không còn tươi. Hơn nữa, các thuyền đánh bắt không có kho lạnh bảo quản qua đêm dễ làm cá bị hôi. Việc bảo quản kho lạnh tốt hơn trong xe lạnh (tức xe vận chuyển từ vùng nguyên liệu tới nhà máy) sẽ giữ được màu sắc cá, không bị mùi hôi, bảo đảm ngày hôm sau tiếp tục phơi và phân loại theo kích cỡ cá.
Ở Thái-lan, công nghệ đánh bắt và bảo quản sau thu hoạch khá hiện đại. Ngay khi đánh bắt được cá, ngư dân Thái-lan luộc cá cơm và phơi khô từ trên tàu vào nhà máy. Công nghệ sấy ở Thái-lan (trong khi phần lớn cá cơm của ta phơi nắng) cũng làm thay đổi màu sắc và hình thức cá cơm sau thu hoạch. Doanh nghiệp Thái-lan áp dụng tốt việc cắt giảm chi phí sản xuất để cạnh tranh với giá thành thấp. Chi phí khấu hao và giá mua nguyên liệu của Thái-lan đều cao hơn Việt Nam và khả năng trợ giá xuất khẩu của Chính phủ Thái-lan dành cho các doanh nghiệp xuất khẩu rất thấp, nhưng xuất khẩu theo giá FOB của họ lại thấp hơn giá Việt Nam.
Tháng 3-2006, giá FOB cá cơm Thái-lan cỡ 2-3cm là 2,8-2,9 USD/kg, trong khi giá của Việt Nam là 3,3-3,5USD/kg.
Theo lời ông Đức, trong Hội chợ quốc tế Moscow Food Exhibi tháng 9/2005, các doanh nghiệp Thái-lan cũng như Trung Quốc chuẩn bị rất chu đáo bài bản, nên lượng khách hàng đến xem và ký hợp đồng nhiều hơn so với gian hàng Việt Nam. “Quan trọng là các doanh nghiệp Thái-lan thích ứng rất nhanh với thay đổi của thị trường,” ông Đức nhận định.
Doanh nghiệp nên hình thành “cộng đồng cá cơm”
Cá cơm Thái chỉ bằng 2/3 sản lượng cá cơm Việt Nam. Vì vậy, nước ta có thể khống chế thị trường bằng số lượng nhưng phải điều chỉnh về chất lượng (phân loại theo kích cỡ và độ khô của cá cơm).
Tháng 2-2006, Tổng thư ký Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (Vasep) đã nêu ra sự mất cân đối giữa vùng sản xuất nguyên liệu và chế biến thủy sản. Vùng sản xuất nguyên liệu chưa đáp ứng được yêu cầu và chưa theo kịp chế biến xuất khẩu. Nguyên nhân là do tổ chức và sản xuất chưa cao.
Các xí nghiệp chế biến cá cơm đều tuân thủ các ràng buộc từ kỹ thuật kho lạnh, dụng cụ vật tư theo tiêu chuẩn Nafiqacen. “Tuy nhiên, đầu vào bấp bênh, nay tốt mai xấu”, ông Đức, Công ty Đệ Khang Phú Thành, nói. Nếu phân loại cá theo A,B, C thì mất nhiều thời gian và chi phí bảo quản làm ảnh hưởng đến giá thành. Vậy, tại sao các doanh nghiệp xuất khẩu cá cơm nước ta không thay đổi công nghệ và qui trình làm cá khô để có hàng chất lượng và cạnh tranh hơn?
Bước đầu không nhất thiết phải có công nghệ, máy móc như Thái-lan mà chỉ cần thay đổi quy trình theo hướng từ phơi - phân kích cỡ - đóng gói - bảo quản. Ông Đức bày tỏ đề xuất của mình như thế. Về lâu dài, nên chăng, các doanh nghiệp cá cơm nghĩ đến giải pháp đầu tư kho lạnh ngay tại vùng nguyên liệu, đầu tư vào phương tiện đánh bắt như Thái-lan đã làm (lò hấp ngay trên tàu đánh bắt).
Ông Đức cho rằng, cách này vừa tiết kiệm đá bảo quản cá vừa kéo dài thời gian đánh bắt, tiết kiệm xăng dầu nhiều hơn”. Muốn vậy, cần có sự liên kết giữa ngư dân, doanh nghiệp và Nhà nước.
Chính tình trạng khan hiếm nguyên liệu đầu vào đã dẫn đến sự cạnh tranh thu mua nguyên liệu ở nhiều nơi như Nha Trang, Quảng Ngãi. Cá cơm các vùng này xanh đẹp, không bụi, mùi vị tự nhiên, chủ yếu xuất đi Hàn Quốc. Theo ông Đức, thực tế ở Seoul và Busan (Hàn Quốc) vẫn có việc cạnh tranh như ở nước ta.
Nhưng từ tháng 2-2006, các nhóm thu mua đã liên kết nhau để khống chế giá nhập khẩu đầu vào đối với cá cơm, cá trích từ Việt Nam sang. Nếu không liên kết, nhiều doanh nghiệp của Việt Nam sẽ phải xuất khẩu cá cơm với giá thấp để cạnh tranh. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến doanh nghiệp mà đằng sau các doanh nghiệp là hàng trăm cơ sở hấp cá nhỏ lẻ, hộ gia đình cá thể sản xuất cá cơm ở miền trung.
Ông Đức cho rằng, các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu cá cơm nước ta nên liên kết hình thành cộng đồng hàng khô Việt Nam, thống nhất mục tiêu xuất khẩu về giá cả, chất lượng.