ND - Trong hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc - chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược 1946 - 1975, đã xuất hiện một khái niệm, một đội ngũ nhà văn - chiến sĩ. Tên tuổi họ, nhất là những người đã ngã xuống trên các chiến trường, như: Hồng Nguyên, Trần Ðăng, Nam Cao, Trần Mai Ninh, Nguyễn Thi, Lê Anh Xuân, Dương Thị Xuân Quý, Nguyễn Trọng Ðịnh... mãi mãi sẽ còn được vinh danh trong lịch sử dân tộc, lịch sử văn học.
Họ, có thể là những nhà văn cầm súng; có thể là những nông dân, công nhân, sinh viên mặc áo lính rồi trở thành nhà văn "chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình".
Trong tầm nhìn chiến lược, Ðảng còn tập hợp một số trí thức trẻ vừa đào tạo quân sự, vừa đào tạo kiến thức văn học, báo chí... để phục vụ chiến trường và cho tương lai của văn học, báo chí cách mạng một cách căn bản.
Có một khóa học, khóa IV Trường viết văn Nguyễn Du của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1970 được tổ chức như vậy. Người khởi xướng cho lớp học này là nhà thơ Tố Hữu, Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương; Ðồng chí Phan Triêm, Phó Trưởng ban Tổ chức T.Ư; nhà văn Nguyễn Ðình Thi, Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam, nhà thơ Bảo Ðịnh Giang, Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam. Khóa học có 70 học viên, phần lớn là sinh viên khoa Văn, khoa Sử Trường Ðại học Tổng hợp, Ðại học Sư phạm Hà Nội. Tham gia khóa học còn có ba nhà văn Lào: Xu Văn Thon, Chăn Thi và Bun Thăm. Xu Văn Thon sau này trở thành Chủ tịch Hội Nhà văn Lào.
Họ ra đi với lý tưởng "Tổ quốc trên hết", "Không ai có thể ngủ yên trong đời chật" khi còn tiếng súng vọng về từ phương nam.
Vì thế, Trần Vũ Mai, Bí thư Ðoàn Tổng cục Thông tin từ chối chức vụ Phó Giám đốc Nhà xuất bản Phổ thông; Nguyễn Ðức Hạt, hạt giống đỏ, con trai một đồng chí Thường vụ Liên khu ủy Liên khu V đã không chọn con đường đi nước ngoài mà chọn con đường trở về giải phóng quê hương.
Nguyễn Văn Long là một chàng trai Hà Nội. Học giỏi, sắp có công ăn việc làm, anh là nguồn hy vọng của cả gia đình đông anh em, thuộc loại nghèo nhất trong một xóm đê ngoại thành. Cả nhà đã dồn những đồng tiền đẫm mồ hôi nước mắt cho anh ăn học, hy vọng anh sớm trở thành đầu tàu kéo cả gia đình khỏi cảnh khổ cực và nuôi các em sau anh trưởng thành. Nhưng anh đã lạy tạ cha mẹ ra đi như điều không thể khác vì nghĩa vụ của trang nam nhi khi nước nhà có giặc. Trong bài thơ Và cuộc đời ngọt hơn đọc trong buổi chia tay bạn bè ở Hòa Bình vào khu V của Nguyễn Văn Long có đoạn:
Một viên đạn chì cay đắng
Làm ta không kịp mỉm cười
Nhưng có hề chi điều đó bạn ơi
Ta đã sống theo những điều ta nghĩ
Và cuộc đời ngọt hơn...
Không ngờ rằng, đó cũng là tiên đoán cho cuộc đời của anh!
Khoá học ấy sau này có nhiều người trở về, nhiều người nổi tiếng như đồng chí Phạm Quang Nghị, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội; đồng chí Nguyễn Ðức Hạt, Ủy viên T.Ư Ðảng, Phó Trưởng Ban Tổ chức T.Ư; các nhà văn, nhà thơ, nhà báo Nguyễn Trí Huân, Nguyễn Khắc Phục, Triệu Bôn, Nguyễn Bảo, Vũ Thị Hồng, Hà Phương...
Ðồng chí Phạm Quang Nghị sau hòa bình, trong buổi gặp mặt những người trở về đã nói: "Chúng ta đã may mắn gặp nhau trong những ngày đẹp nhất, hạnh phúc nhất của cuộc đời mỗi người, khi trong lòng mỗi chúng ta đều cháy sáng ngọn lửa của lý tưởng, đều khao khát được chiến đấu hy sinh vì sự nghiệp thiêng liêng giải phóng miền nam, thống nhất đất nước. Có lẽ, nếu phải bắt đầu trở lại, chúng ta cũng sẽ chọn con đường mà chúng ta đã chọn...". Ðồng chí Nguyễn Ðức Hạt tâm sự: "Chính những ngày gian khổ hiểm nguy ở chiến trường đã gắn bó chúng ta và chắc chắn tình cảm ấy sẽ đi cùng chúng ta suốt cả cuộc đời. Ðọc những người đã đồng cam cộng khổ ngoài mặt trận bao giờ cũng thấy hay hơn, xúc động hơn những tác phẩm khác...".
Có nhiều người đã không trở về như Nguyễn Văn Long, Nguyễn Văn Kim và Nguyễn Hồng. Nguyễn Hồng là trường hợp tôi muốn được kể nhiều hơn với lòng cảm phục sâu sắc.
Nguyễn Hồng sinh ngày 20- 11-1950 tại Ðức Thọ, Hà Tĩnh, tốt nghiệp khoa Ngữ Văn, Ðại học Tổng hợp Hà Nội, vào chiến trường tháng 4-1971. Năm 1972, anh có thiên ký sự Ðêm cao điểm, được tặng Giải thưởng của Văn nghệ quân đội.
Giữa anh em, đồng đội, anh thường tỏ ra hiền lành nhút nhát nhưng khi xung trận và đối mặt với cái xấu, anh lại vô cùng quyết liệt, không một chút khoan nhượng.
Trong chiến dịch chống lấn chiếm đầu năm 1973, Nguyễn Hồng xung phong xuống mặt trận nóng bỏng nhất Quảng Ðà với chức vụ Ðại đội phó một đại đội bộ đội địa phương.
Khi địch tràn tới với quân số và hỏa lực áp đảo, một số đơn vị bộ đội ta đã không giữ được vị trí, để mất chốt. Ðại đội Nguyễn Hồng vẫn trụ vững nhưng thương vong càng ngày càng lớn. Chính trị viên hy sinh. Ðại đội trưởng dao động, ra lệnh bỏ chốt rút lui. Nguyễn Hồng ngăn lại:
- Chúng ta không được bỏ trận địa cho địch. Phải chiến đấu giữ chốt đến giọt máu cuối cùng!
Ðại đội trưởng nóng mặt:
- Tôi là đại đội trưởng. Ở đây, chỉ có tôi mới có quyền ra lệnh. Anh là nhà văn, lính tăng cường, không can thiệp vào công việc chiến đấu, công việc chỉ huy!
Nguyễn Hồng cự lại:
- Ở đây không có nhà văn nào hết. Tôi là đại đội phó. Tôi ở Quân khu về, theo lệnh cấp trên là phải giữ vững chốt. Các đồng chí! Ai quyết tâm giữ chốt, theo tôi!
Rồi anh cầm AK lao về phía địch. Hai mươi chiến sĩ khác lao theo. Quân địch đột ngột bị đẩy lui và hoảng loạn tháo chạy bởi đợt tiến công xung thiên của lòng quả cảm.
Chốt được giữ vững.
Quân ta có một người anh dũng hy sinh.
Ðó là Nguyễn Hồng!
Anh cũng như bao người đồng đội, những người tốt nhất, trong sáng nhất, tài năng nhất đã nằm lại vĩnh viễn trên các chiến trường để đất nước đi đến ngày 30-4.