Ca trù, còn đó nỗi lo

Biểu diễn hát ca trù.
Biểu diễn hát ca trù.

Ðây là sinh hoạt văn hóa "cao cấp", còn trong phường ngõ, làng xóm quê ta vẫn thường vang lên tiếng phách, tiếng đàn đáy. Người chơi nghiệp dư, hát những bài ca trù do mình sáng tác. Ðấy chính là sức sống trường tồn của nghệ thuật hát nói có lịch sử từ thế kỷ 15 của nước ta, còn có tên hát cửa đình, hát ả đào, hát cô đầu...

Những năm gần đây, ca trù càng ngày càng được quan tâm phát triển. Ðã có những người trẻ mà tâm huyết nghiên cứu ca trù, đã có nhiều em còn ít tuổi mà được truyền nghề gõ phách, nhịn hơi nhả chữ... ra trình diễn được hoan nghênh. Một nhà báo viết bài mừng rỡ: "Lo gì ca trù mai một".

Mừng, nhưng vẫn lo đấy.

Ðiều đáng lo của hôm nay là thiếu vắng một không gian văn hóa ca trù. Ca trù gắn liền với lễ hội, phong tục tín ngưỡng, văn chương, âm nhạc, tư tưởng, triết lý sống của người Việt. Mà hôm nay, tất cả những cái đó đều đang thay đổi, phát triển khác trước rất nhiều. Khác rất nhiều, những ca quán nhộn nhịp tài tử văn nhân. Ðâu còn những đêm hội làng, đào kép về hát thờ thành hoàng theo lệ hằng năm? Những cuộc khao vọng, mừng sinh nhật, khai trương... tưng bừng lời chúc, hoa, rượu... nhưng không có chỗ, không ai nhớ dành một chiếu hát cho ca trù. Tìm cho ca trù một chỗ đứng trong đời sống văn hóa - nghệ thuật đa dạng phong phú hôm nay thật không dễ dàng.

Di sản là báu vật. Nhưng di sản không chỉ để chiêm ngưỡng mà vẫn hiện hữu, đồng hành cùng dân tộc trong cuộc sống hôm nay.

Bàn về cụ thể thì một nguyên nhân đáng lo là thiếu những bài hát ca trù. Ngày trước, những người làm bài hát ca trù nổi tiếng đều là những văn nhân tài tử, những nhà thơ của đất nước: Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Dương Khuê, Chu Mạnh Trinh, Tản Ðà... Thể ca trù, ngoài những mưỡu đầu, mưỡu cuối, cách đặt các câu 5, câu 6... nhiều bài lại có hai câu thơ chữ Hán uyên bác. Sơ qua để thấy muốn viết nên một bài hát ca trù thì tác giả phải là một nhà thơ, có tâm hồn thơ, hiểu cấu trúc thể thơ hát nói, hiểu rõ âm luật ca trù. Nhiều bài thơ tâm trạng (giọng điệu riêng của ca trù) rất hay như “Chiều hôm nhớ nhà” của Bà Huyện Thanh Quan, “Thu cảm” của Tản Ðà... Nghệ sĩ Nhân dân Quách Thị Hồ, chỉ ngâm trong tiếng đàn thập lục của nghệ sĩ Ðinh Khắc Ban chữ không vừa hát vừa róc phách hòa tiếng đàn đáy của nghệ sĩ Phó Ðình Kỳ. Phải chăng vì thế, mấy trăm năm lịch sử ca trù vẫn chỉ sáng giá một số tên tuổi lừng danh.

Ở các câu lạc bộ ca trù hiện nay (Bạch Vân, Thăng Long Hà Nội; Xứ Nhãn Hưng Yên; câu lạc bộ ca trù Hà Tây...) đều có người đưa thơ của mình cho nghệ nhân hát nhưng khi tiếng ca, tiếng phách dừng, thì bài hát trôi ngay vào quên lãng. Hy vọng rồi đây sẽ xuất hiện những tài năng sáng tác mới, có nhiều bài hát ca trù mới rung động lòng người.

Một đặc sắc nữa của nghệ thuật ca trù là tiếng trống chầu. Người đánh trống chầu (còn gọi quan viên), là người "ngoài" thưởng thức, khen chê đàn ngọt hát hay nhiều khi cũng là tác giả bài hát ca trù, người "trong". Cầm chầu đòi hỏi tinh tế, nắm được cái thần của bài thơ, cảm được cái hồn trong tiếng hát, nhịp phách, tiếng đàn để không chỉ nâng cao thêm mà còn là sự đánh giá, khen thưởng và thậm chí, có trường hợp dùng tiếng trống phạt đào nương ngay trước cửa đình.

Sang trọng như thế đấy và công phu điêu luyện như thế đấy nên miền bắc xưa mới có giai thoại mấy thầy chánh tổng, lý trưởng trèo leo đánh trống chầu, dở đến mức đào hát phải cất tiếng than "làng này" tài tử văn nhân đi đâu cả?..". Còn ở miền nam truyền tụng câu ca: "Ở đời có bốn cái ngu/làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu. Cầm chầu mà dốt thì bị chê cười để lại tai tiếng cả đời!

Ca trù Việt Nam có nhà thơ, tiến sĩ Chu Mạnh Trinh được tôn gọi "thần chầu". Chuẩn bị một đêm hát, các nghệ nhân hỏi nhau quan viên cầm chầu là ai. Sự quan tâm là rất chính đáng.

Và đào hát, bà Quách Thị Hồ, con gái một "á nguyên" trong hội thi hát ca trù Bắc Kỳ năm xưa. Nghệ  sĩ Nhân dân Quách Thị Hồ được ghi danh trong cuốn sách "Những tên tuổi truyền kỳ trong nghệ thuật" in tại Liên Xô (trước đây). Tiếng hát của bà con được lưu giữ cùng tiếng hát của những người xuất sắc nhất trong Liên hoan quốc tế Âm nhạc truyền thống tổ chức tại Bình Nhưỡng (Triều Tiên) năm 1988 có 29 quốc gia tham dự.

Ca trù dân gian mà bác học. Ca trù với thể thơ hát nói độc đáo và đặc sắc của văn hóa Việt Nam. Ca trù với âm thanh cây đàn đáy cán dài chỉ có ở Việt Nam. Và tiếng phách bay lượn, tiếng trống chầu lôi cuốn... tất cả tạo nên hồn vía nghệ thuật ca trù Việt Nam. Viện Âm nhạc và Cục Di sản văn hóa nước ta đang hoàn thiện hồ sơ để trình UNESCO công nhận ca trù là di sản văn hóa thế giới. Cơ quan văn hóa Liên hợp quốc quan tâm chú ý, bởi "Gìn giữ ca trù, truyền thống âm nhạc của đất nước Việt Nam, tức là giữ của quý cho nhân loại" (sách "Những tên tuổi truyền kỳ trong nghệ thuật").

Giữ gìn cho ca trù tồn tại lâu dài, không chỉ thế, mà còn phát triển, nâng cao, góp vào sự nghiệp xây dựng đất nước văn minh hiện đại ngày mai. Ðấy là tấm lòng của tất cả những ai nặng tình nặng nghĩa với ca trù. Cũng lại là một nỗi lo: nghệ thuật ca trù với đậm đặc những bài ca lãng mạn, làm sao có thể chở nổi những nội dung mới trong xây dựng cuộc sống mới hôm nay?

Có thể bạn quan tâm