Theo Bộ Y tế, virus Adeno gây bệnh ở người gây bệnh thường nhẹ, trừ một số trường hợp diễn biến nặng khi có bệnh kèm theo như suy giảm miễn dịch, bệnh phổi mạn, bệnh tim bẩm sinh, ung thư, ghép tạng...
Virus adeno gây bệnh ở người lây truyền trực tiếp từ người sang người qua đường hô hấp trong phạm vi gần, hoặc gián tiếp qua tiếp xúc với dịch cơ thể có chứa virus.
Nguy cơ lây nhiễm giống như một số virus cảm lạnh thông thường, nhưng thấp hơn virus hợp bào hô hấp (RSV), cúm mùa, SARS-CoV-2.
Virus Adeno thường gây dịch ở nơi có điều kiện sống kém, đông đúc, có thể do nhiễm trùng bệnh viện qua bàn tay người chăm sóc, dụng cụ thăm khám chăm sóc, đặc biệt ở khoa Hồi sức, Sơ sinh, Đơn vị ghép tạng.
Bệnh bắt đầu lây truyền vào cuối thời kỳ ủ bệnh và kéo dài đến 14 ngày sau khi phát bệnh hoặc có thể lâu hơn.
Virus Adeno ở người mang có thể tồn tại trong vài tuần đến vài tháng, cư trú trong mô bạch huyết, nhu mô thận hay các mô khác thậm chí vài năm.
Bệnh thường xảy ra vào mùa đông, xuân và đầu hè, tuy nhiên bệnh có thể xảy ra quanh năm.
Thời gian ủ bệnh của nhiễm virus Adeno khoảng từ 2-12 ngày, trung bình là 8 ngày, nhưng cũng có thể dài hơn 12 ngày.
Triệu chứng bệnh biểu hiện qua phản ứng đáp ứng viêm hệ thống không đặc hiệu, viêm kết mạc, phản ứng hạch lympho, tổn thương đường tiêu hóa, và thường gây nặng bằng tổn thương đường hô hấp gây viêm phổi, suy hô hấp tiến triển...
Giải pháp điều trị chính là điều trị triệu chứng, điều trị theo sinh lý bệnh, có một số liệu pháp điều trị kháng virus nhưng vẫn đang là các nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng, có thể hóa điều trị ở một số trường hợp bệnh nặng và nguy kịch. Dự phòng bệnh chủ yếu là các giải pháp phòng ngừa lây nhiễm.
Triệu chứng lâm sàng của nhiễm virus Adeno gây bệnh ở người rất đa dạng, sau thời gian ủ bệnh, người bệnh có thể xuất hiện 1 hay nhiều triệu chứng như: sốt, đau đầu, ho khan, đau họng, nghẹt mũi/sổ mũi, buồn nôn, đau bụng.
Theo văn bản này, Bộ Y tế yêu cầu nguyên tắc điều trị virus Adeno gồm: áp dụng biện pháp phòng ngừa lây nhiễm khuẩn trước và trong thời gian điều trị, chăm sóc; phân loại và điều trị theo các mức độ nặng của bệnh; điều trị triệu chứng: hạ sốt giảm ho, giảm đau...; điều trị hỗ trợ khác: bảo đảm trẻ được bú mẹ và dinh dưỡng hợp lý theo mức độ nặng của bệnh, bù nước điện giải, dinh dưỡng...; luôn tuân thủ nguyên tắc cấp cứu A-B-C: kiểm soát đường thở, thở, tuần hoàn.
Hướng dẫn của Bộ Y tế cũng nêu rõ cá thể hóa các biện pháp điều trị, đặc biệt là các ca bệnh nặng nguy kịch. Với thuốc kháng sinh/kháng nấm, chỉ sử dụng khi có chỉ định. Điều trị bệnh nền, bệnh kèm theo nếu có.
Điều trị triệu chứng tại nhà, theo dõi và phát hiện dấu hiệu nặng để đưa trẻ đến viện kịp thời:
Hạ sốt: paracetamol liều 10-15 mg/kg/lần nếu sốt ≥ 38,5 độ C cách 4-6 giờ, nếu trẻ sốt lại lần 2 38,5 độ C.
Cho trẻ mặc thoáng, phòng thoáng khí. Khi sốt ngoài uống hạ sốt có thể kết hợp kèm chườm nước ấm (nhiệt độ nước thấp hơn nhiệt độ cơ thể 3-5 độ C)
Cho trẻ uống thêm dung dịch điện giải oresol, ăn nhiều bữa, ăn lỏng.