Do vậy, các bộ, ngành, chính quyền địa phương cần tập trung triển khai đồng bộ các giải pháp để quản lý, khai thác hợp lý và bảo vệ nguồn tài nguyên này một cách bền vững.
Kết quả điều tra của Dự án Biên hội, thành lập bản đồ tài nguyên nước dưới đất tỷ lệ 1:200.000 do Bộ Tài nguyên và Môi trường thực hiện năm 2018 cho thấy: Tổng trữ lượng tài nguyên nước dưới đất dự báo trên toàn lãnh thổ Việt Nam (chưa kể phần hải đảo) được đánh giá vào khoảng 189,3 triệu m3/ngày (nước nhạt); khoảng 61,4 triệu m3/ngày (nước mặn) và thuộc loại lớn so với khu vực. Tuy nhiên, hiện chỉ có các khu vực đồng bằng, đồng bằng ven biển và khu vực Tây Nguyên là có điều kiện thuận lợi để khai thác nước dưới đất tập trung, với quy mô lớn. Theo thống kê sơ bộ, tổng lượng khai thác nước dưới đất trên toàn quốc ước tính khoảng 10,5 triệu m3/ngày/đêm (chiếm khoảng 17,2% trữ lượng nước dưới đất có thể khai thác). Nguồn nước dưới đất được khai thác chủ yếu để cấp nước cho sinh hoạt (đô thị, nông thôn); khai thác để phục vụ một số mục đích khác như: tưới cà-phê, cây công nghiệp ở Tây Nguyên; nuôi trồng thủy sản, nuôi tôm trên cát ở ven biển miền trung, bán đảo Cà Mau...
Khai thác nước dưới đất tập trung với quy mô lớn ở một số khu vực đô thị lớn đã dẫn đến hạ thấp mực nước sâu tại các tầng chứa nước. Số liệu tại mạng quan trắc quốc gia cho thấy, tại thành phố Hà Nội từ năm 1992 đến nay, tốc độ hạ thấp mực nước tầng chứa nước khai thác chính ở khu vực này (tầng Pleistocen) trong khoảng từ 0,08 đến 0,91 m/năm, song từ năm 2018 đến nay có xu hướng ổn định và không bị hạ thấp. Hay tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long, số liệu quan trắc từ năm 1998 cho thấy, tốc độ hạ thấp mực nước trung bình khoảng 0,06 đến 0,4 m/năm tùy theo tầng chứa nước, trong đó tầng chứa nước khai thác chính (tầng qp2-3 chiều sâu từ 80 đến 140 m và tầng n22 chiều sâu từ 250 đến 280 m) có tốc độ hạ thấp lớn hơn trong khoảng từ 0,3 đến 0,4 m/năm. Từ năm 2018 đến nay mực nước tại các điểm quan trắc ở khu vực này đều có xu hướng đạt đến ổn định, gần như không bị hạ thấp thêm, nhất là tại các điểm bị hạ thấp sâu trước đây như: huyện Ba Tri (tỉnh Bến Tre), thành phố Bạc Liêu (tỉnh Bạc Liêu), thị xã Duyên Hải (tỉnh Trà Vinh), thành phố Cà Mau (tỉnh Cà Mau)...
Việc khai thác nước dưới đất ở nước ta thời gian qua thường tập trung với lưu lượng lớn, bố trí công trình khai thác nước chưa hợp lý tại các khu vực đô thị lớn đã gây suy giảm mực nước dưới đất với tốc độ nhanh, liên tục, cục bộ trong các tầng chứa nước; mặc dù tổng lượng khai thác nước dưới đất so với tiềm năng chưa lớn. Cụ thể, Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh mới chiếm khoảng 21,3% và khoảng 34% so với tiềm năng. Trong khi đó, tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long việc khai thác nước dưới đất lại quá tập trung vào tầng chứa nước qp2-3, chiều sâu khoảng từ 80 đến 140 m (chiếm khoảng 50% tổng lượng khai thác) và tập trung chủ yếu tại các đô thị đã gây ra tình trạng hạ thấp mực nước sâu và gia tăng quá trình xâm nhập mặn trong tầng chứa nước... Mặc dù công tác quy hoạch điều tra cơ bản đã được Chính phủ phê duyệt, song việc triển khai còn chậm do thiếu nguồn lực.
Hiện công tác điều tra, đánh giá tài nguyên nước dưới đất mới chỉ tập trung ở các tầng chứa nước nằm nông và cũng chỉ ở mức sơ bộ (tỷ lệ 1:200.000); chưa có số liệu kiểm kê tài nguyên nước dưới đất, thiếu tài liệu về hiện trạng khai thác, sử dụng nước dưới đất. Hiện mới chỉ có một số tỉnh, thành phố được điều tra, đánh giá hiện trạng khai thác nước dưới đất ở tỷ lệ 1:100.000 như: Hà Nội, Hậu Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc Trăng, thành phố Cần Thơ... Mặt khác, hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu quan trắc còn lạc hậu; việc tổng hợp, xử lý thông tin, số liệu quan trắc còn khó khăn do thiếu trang thiết bị, nguồn nhân lực dẫn đến các thông tin dự báo, cảnh báo phục vụ công tác quản lý còn chậm, chưa kịp thời, chưa đáp ứng yêu cầu đề ra.
Để tăng cường công tác quản lý, bảo vệ nguồn nước dưới đất, bảo đảm an ninh nguồn nước ở nước ta, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ sửa đổi Luật Tài nguyên nước, trong đó chú trọng sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách để nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý và bền vững tài nguyên nước dưới đất; tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các văn bản pháp luật liên quan đến bảo vệ tài nguyên nước dưới đất tại các địa phương, nhất là việc ban hành Danh mục vùng hạn chế khai thác nước dưới đất, thực hiện các biện pháp hạn chế khai thác nước dưới đất phù hợp; đồng thời xử lý, trám lấp các giếng hỏng, không sử dụng nhằm hạn chế ô nhiễm nước dưới đất; tổ chức quy hoạch tổng thể điều tra cơ bản tài nguyên nước quốc gia, trong đó quy hoạch khai thác hợp lý, điều chỉnh phương án khai thác nước dưới đất hiện tại cho phù hợp, bảo đảm tổng lượng khai thác không vượt quá trữ lượng của nước dưới đất; không vượt ngưỡng giới hạn khai thác an toàn. Ngoài ra, ngành tài nguyên nước từng bước đầu tư nâng cấp, hoàn thiện việc xây dựng, vận hành hệ thống giám sát hoạt động khai thác nước dưới đất để theo dõi, phát hiện các công trình bị suy giảm mực nước quá mức và có phương án xử lý kịp thời; đẩy mạnh công tác nghiên cứu, áp dụng các giải pháp để tăng cường khả năng trữ nước ngọt, giảm dần khai thác nước dưới đất; nghiên cứu, áp dụng các giải pháp lưu giữ nước mưa ở các đô thị, dân cư tập trung nhằm giảm ngập úng, đồng thời bổ sung nhân tạo cho nước dưới đất...
Ngày Nước thế giới (22/3) năm 2022, được Liên hợp quốc phát động, với chủ đề "Nước ngầm - Biến nguồn tài nguyên vô hình thành hữu hình", nhằm nhấn mạnh vai trò quan trọng của nước ngầm trong hệ thống nước và điều kiện vệ sinh, nông nghiệp, công nghiệp, hệ sinh thái và thích ứng với biến đổi khí hậu; đồng thời hướng đến kêu gọi sự quan tâm của cộng đồng để có những hành động khai thác, bảo vệ và sử dụng bền vững nguồn nước ngầm. Hưởng ứng Ngày Nước thế giới, Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp các bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố tổ chức nhiều hoạt động như: mít-tinh, hội nghị, hội thảo, triển lãm; đẩy mạnh huy động các nguồn lực đầu tư, khởi công, xây dựng và bàn giao các công trình, dự án thuộc lĩnh vực tài nguyên nước tại các địa phương...