Tôi nhớ, cách đây 50 năm trong danh mục ngành sân khấu chuyên nghiệp Việt Nam chưa có múa rối, mặc dù đây là môn nghệ thuật truyền thống có tuổi đời vào loại cao nhất.
Là người phụ trách Viện Sân khấu Việt Nam trước đây, tôi đã từng tổ chức một số nghiên cứu về các công trình nghiên cứu múa rối, tạo điều kiện cho các nghệ sĩ trẻ thử nghiệm hình thức sân khấu múa rối mi-ni và hiểu được bước đi của ngành nghệ thuật múa rối.
Vì sao trước đây Nhà hát múa rối Trung ương phát triển nhanh ngay khi mới thành lập, thời điểm còn nhiều khó khăn, bỡ ngỡ nhưng lại làm ra được nhiều tiết mục hay, thu hút đông đảo công chúng?
Theo tôi, có nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là việc đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên môn được đặt ra một cách nghiêm túc và cấp bách. Những năm đầu thập kỷ 60 - 70 của thế kỷ trước, hàng loạt cán bộ được cử ra nước ngoài học tập, kể cả việc mời chuyên gia vào Việt Nam tập huấn kỹ thuật múa rối.
Những đạo diễn và họa sĩ tên tuổi như Huỳnh Văn Cát, Trần Nghĩa, Ngô Quỳnh Giao, Hoàng Luận, Ðặng Ánh Ngà, Ðoàn Thị Tình, Mạnh Hùng... đều qua đào tạo bài bản về nghệ thuật múa rối và chính lực lượng này đã đẩy múa rối tiến lên một bước xa.
Hàng loạt vở diễn rối cạn khá hấp dẫn đã ra đời như: Con thỏ ngọc của Lưu Hữu Phước và Mai Văn Bộ, Cô gái tóc vàng của Bu-ben và Cai-na (Tiệp Khắc), Bầy gấu vui tính của Cai-na (Tiệp Khắc), Tấm Cám và Thạch Sanh của Trần Văn Nghĩa, Thánh Gióng của Huy Hồng, Dăm Noi của Vũ Quang Vinh, Chú Cuội và Cây đa thần của Nguyễn Nguyệt Nga, Cây tre trăm đốt của Thành Long...
Một thời, Nhà hát múa rối Trung ương liên tục biểu diễn cả ngày lẫn đêm mà người xem vẫn đông nghịt, trong đó không chỉ có thiếu nhi mà có cả người lớn nữa. Nhưng rồi, múa rối cũng không thoát ra được cơn khủng hoảng văn hóa có tính toàn cầu, khi các trào lưu nghệ thuật thương mại xâm nhập Việt Nam.
Khán giả, nhất là thế hệ trẻ ngày càng quay lưng với tuồng, chèo, cải lương và múa rối. Rất may là môn nghệ thuật rối nước, xuất thân từ làng, xã mà trước đó bị xem thường thì nay lại tìm được một lối thoát, thậm chí thăng hoa vì thu hút du khách nước ngoài. Những người làm múa rối nước đổi đời và những người làm rối cạn cũng được ăn theo khi biết kịp thời chuyển hướng từ trên cạn xuống nước.
Trong hơn hai chục năm qua, múa rối nước của Nhà hát múa rối Trung ương và tiếp theo là Nhà hát múa rối Thăng Long đã đi khắp năm châu, chiếm đầu bảng trong đội quân văn nghệ Việt Nam xuất ngoại. Cũng trong xu thế này, nhiều phường múa rối nước ở các tỉnh Thái Bình, Nam Ðịnh, Hải Phòng, Hải Dương, Hà Tây... nhanh chóng được phục hồi và ngoài việc biểu diễn phục vụ đồng bào địa phương, còn đi lưu diễn cả các địa phương khác ở trong nước và ngoài nước...
Có thể gọi những thập niên 90 đến năm 2000 và đầu thế kỷ 21 này là thời lên ngôi của múa rối nước Việt Nam. Dĩ nhiên, khi quan sát một hiện tượng văn hóa mà chỉ nhìn bề mặt và bề nổi thì không thể thấy được tầm sâu văn hóa phi vật thể và cũng không thấy được thực trạng của hiện tượng văn hóa, đó là múa rối dân gian đang tồn tại và đang diễn biến ra sao? Ai cũng biết múa rối dân gian là nền tảng, là nguồn cung ứng của múa rối hiện đại, nhưng việc bảo tồn và phát huy nó đang còn nhiều bất cập.
Theo nhận định, múa rối dân gian cả nước đang ngày càng bị mai một và bế tắc. Mấy chục phường rối nước chỉ diễn một chương trình các trò này giống nhau, mặc dù 16 trò diễn này vốn được khai thác từ các phường múa rối dân gian ở Thái Bình, Nam Ðịnh.
Phải công nhận rằng những năm gần đây các nhà hát múa rối có cố gắng làm ra nhiều chương trình nghệ thuật hoành tráng, có những thử nghiệm táo bạo, nhưng dường như lại không chú ý bản sắc của loại hình, vì hầu hết các tiết mục đều pha trộn các thể loại rối nước, rối cạn và cả kịch nói nữa. Chúng ta hiểu, con đường tìm tòi, khám phá, thử nghiệm mà nhà hát đang đi là vô cùng khó khăn. Vì đã thử nghiệm thì không phải lúc nào cũng thành công, nhưng cần thử nghiệm để tìm ra một hướng đi, để làm ra tiết mục tốt, đồng thời còn nhằm xây dựng một khuynh hướng, một phong cách nghệ thuật ổn định và lâu dài của một nhà hát tầm cỡ quốc gia. Nhưng bên cạnh đó, không thể xem nhẹ nhiệm vụ bảo tồn và phát huy di sản nghệ thuật dân gian và truyền thống.
Nhìn chung các khâu sáng tác, đạo diễn, biểu diễn, tạo hình và nghiên cứu ở Nhà hát múa rối Trung ương còn nhiều thiếu hụt, kéo dài từ nhiều năm trước cho đến nay vẫn chưa khắc phục. Sự thiếu đồng bộ, thiếu một phong cách ổn định ở trung tâm nghệ thuật múa rối quốc gia hàng đầu này có nhiều nguyên nhân.
Theo tôi, ngoài nguyên nhân khách quan là chịu sức ép của kinh tế thị trường, của nghệ thuật thương mại và ảnh hưởng phức tạp của sự hội nhập văn hóa toàn cầu, thì còn một nguyên nhân chủ quan là sự không đồng bộ, sự hẫng hụt về kiến thức trong đội ngũ sáng tạo, từ sáng tác, đạo diễn, biểu diễn đến tạo hình mỹ thuật sân khấu.
Ðây là hệ quả của việc coi thường nghiên cứu lý luận và đào tạo tài năng, đào tạo nghiệp vụ cho ngành múa rối. Nói chung là nhà hát còn thiếu một cơ chế hợp lý để hoạt động nghệ thuật và đào tạo đội ngũ kế thừa gắn bó với nhau.
Như trên đã nói, thời kỳ đầu mới thành lập, ngành múa rối Việt Nam có nhiều người được đào tạo chính quy ở nước ngoài, được chuyên gia nước ngoài tập huấn. Họ đã đẩy "con tàu" múa rối chuyên nghiệp tiến lên. Nhưng thời gian đã làm rơi rụng, đến nay không còn mấy người đủ khả năng sáng tác và đạo diễn để làm ra những tiết mục hay như Cô gái tóc vàng, như Thạch Sanh, Tấm Cám... cách đây 40 - 50 năm.
Ðã nửa thế kỷ rồi mà nghệ thuật múa rối Việt Nam dường như vẫn dẫm chân tại chỗ, nhất là đội ngũ cán bộ nghệ thuật càng ngày càng mỏng. Vì sao có trường xiếc, trường sân khấu với khoa kịch nói, khoa kịch hát dân tộc với các chuyên ngành: tuồng, chèo, cải lương, lại không có trường hoặc khoa đào tạo riêng cho múa rối? Do đó mới dẫn tới hệ quả xử lý lẫn lộn loại hình làm mất bản sắc dân tộc?
Việc bảo tồn và phát huy múa rối dân gian cũng còn nhiều bất cập. Ðiều này được bộc lộ trong dàn tiết mục gần đây của các nhà hát múa rối, từ rối cạn đến rối nước. Rối cạn thì thiếu kịch bản hay và đạo diễn giỏi. Những trò diễn hay của dân gian chưa được khai thác, những tiết mục tốt đã trở thành truyền thống cũng chưa được bảo lưu và phát huy đúng mức nếu không nói là bị lãng quên. Rối nước thì vẫn lặp đi lặp lại 16 trò cổ, trong khi còn hàng trăm trò diễn đặc sắc khác đang tồn tại ở các phường trong thôn, xã khắp miền bắc, mà nghệ nhân giữ nghề thì ngày càng ít đi.
Muốn có một tổng thể nghệ thuật đẹp, có sức hấp dẫn người xem thì phải có một đội ngũ nghệ sĩ có tài, có nghề, được đào tạo chính quy và chuyên nghiệp theo chuyên ngành, chứ không phải đào tạo kiểu lồng ghép, nhập cục các thể loại sân khấu như một số trường nghệ thuật đang làm, đồng thời cũng không nên chỉ đào tạo tại chỗ một cách thiếu bài bản, thiếu khoa học và thiếu kiến thức tổng hợp, để rồi mãi mãi cho ra lò vẫn là những người hoạt động nghệ thuật mang tính nghiệp dư, non nớt về kỹ thuật và yếu kém về tri thức văn hóa, mà trình độ văn hóa là cái nền của mọi hoạt động nghệ thuật.