Báo cáo quốc gia thực thi Công ước CERD
Việt Nam tham gia Công ước CERD từ năm 1982 và đã bốn lần bảo vệ thành công Báo cáo quốc gia thực thi Công ước CERD vào các năm 1983, 1993, 2000 và 2012. Đây cũng là cơ hội để Việt Nam tuyên truyền về những thành tựu bảo vệ nhân quyền của ta nói chung và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với người dân tộc thiểu số và người nước ngoài ở Việt Nam, góp phần bác bỏ các luận điệu vu cáo, xuyên tạc của các thế lực thù địch đối với Việt Nam, cũng như tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa Việt Nam và cộng đồng quốc tế.
Tiếp tục thành công của các kỳ trước, Báo cáo quốc gia lần thứ năm thực thi Công ước CERD của Việt Nam (sau đây gọi tắt là Báo cáo quốc gia lần thứ năm) được tích cực triển khai. Đây là một báo cáo về các biện pháp lập pháp, hành chính, tư pháp hoặc các biện pháp khác và kết quả triển khai các biện pháp đó trong giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2019 nhằm bảo vệ quyền con người, chống các hành vi kỳ thị, phân biệt về chủng tộc tập trung vào người dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Từ năm 2017 đến năm 2020, Báo cáo quốc gia lần thứ năm được biên soạn bởi Ban soạn thảo liên ngành gồm các Bộ, ngành liên quan trực tiếp đến việc bảo đảm, bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người, trong đó Ủy ban Dân tộc là cơ quan đầu mối soạn thảo Báo cáo. Báo cáo nhằm tuyên truyền các thành tựu bảo vệ nhân quyền cho người dân tộc thiểu số và người nước ngoài ở Việt Nam, nhận diện các khó khăn, thuận lợi trong việc thực hiện Công ước trong giai đoạn báo cáo và định hướng triển khai trong tương lai.
Có thể khẳng định Báo cáo quốc gia lần thứ năm là tài liệu quảng bá hình ảnh Việt Nam, giới thiệu ra thế giới những thành quả trong hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện chính sách cho đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống tại Việt Nam, công tác xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc và cũng là diễn đàn để đấu tranh ngoại giao với các thế lực phản động đang chia rẽ đoàn kết dân tộc đặc biệt là lĩnh vực nhân quyền.
Có thể khẳng định Báo cáo quốc gia lần thứ năm là tài liệu quảng bá hình ảnh Việt Nam, giới thiệu ra thế giới những thành quả trong hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện chính sách cho đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống tại Việt Nam, công tác xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc và cũng là diễn đàn để đấu tranh ngoại giao với các thế lực phản động đang chia rẽ đoàn kết dân tộc đặc biệt là lĩnh vực nhân quyền.
Chủ trương của Đảng, Nhà nước Việt Nam bảo đảm, thúc đẩy quyền của các dân tộc thiểu số
Hiến pháp, Việt Nam dành riêng chương II với 36 điều quy định trực tiếp và rõ ràng về “quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”, bao gồm quyền của dân tộc thiểu số với các quy định về bảo đảm quyền cho đồng bào dân tộc thiểu số. Với cách thức xây dựng văn bản quy phạm pháp luật theo từng lĩnh vực, việc bảo đảm quyền của người dân tộc thiểu số được thể chế hóa ở nhiều văn bản pháp luật trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Từ năm 2013-2019, trong 53 văn bản Luật có các điều khoản quy định đảm bảo quyền của người dân tộc thiểu số, có 12 Luật mới ban hành từ năm 2012. Việc bảo đảm quyền bình đẳng toàn diện về kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị và dân sự cho tất cả các dân tộc chính là biểu hiện việc thực hiện quyền tự quyết của các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam.
Chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam là bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp nhau cùng tiến bộ; các dân tộc không phân biệt đa số hay thiểu số, trình độ phát triển cao hay thấp, đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội và được bảo đảm bằng Hiến pháp và pháp luật. Việc bảo đảm quyền bình đẳng toàn diện về kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị và dân sự cho tất cả các dân tộc chính là biểu hiện việc thực hiện quyền tự quyết của các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam. Người dân tộc thiểu số được hưởng toàn bộ các quyền con người, quyền công dân của nước CHXHCN Việt Nam, ngoài ra còn được hưởng những quyền ưu tiên đặc thù theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Kết quả thực hiện chính sách bảo đảm quyền của người dân tộc thiểu số:
Thực tế chứng minh, niềm tin của đồng bào dân tộc thiểu số đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước không ngừng được củng cố và tăng cường, đi vào chiều sâu và tầm cao mới; đồng thuận xã hội được nâng lên, khối đại đoàn kết các dân tộc được xây dựng vững chắc hơn, đủ sức đề kháng với mọi luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được phát triển sâu rộng, không để xảy ra các “điểm nóng” về an ninh trật tự.
Kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (dân tộc thiểu số và miền núi) trong những năm qua có bước phát triển tích cực, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn trước, cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động và thu nhập bước đầu có sự chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông, lâm nghiệp. Kết cấu hạ tầng vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi được đầu tư xây dựng đồng bộ tạo điều kiện cho đồng bào tiếp cận với các dịch vụ công thuận lợi hơn; tiềm năng lợi thế ở từng vùng, từng khu vực được khai thác hiệu quả hơn, góp phần nâng cao thu nhập của người dân. Sự nghiệp giáo dục, đào tạo, dạy nghề; y tế, chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu số tiếp tục được quan tâm, đầu tư, phát triển cả về số lượng và chất lượng, góp phần nâng cao mặt bằng dân trí và chất lượng nguồn nhân lực.
Công tác giữ gìn, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa đặc sắc của cộng đồng các dân tộc thiểu số được Đảng, Nhà nước hết sức quan tâm, phong tục tập quán lạc hậu dần được xóa bỏ; một số sản phẩm văn hóa vật thể, phi vật thể được khôi phục, lưu truyền; hàng năm tổ chức các ngày hội văn hóa các dân tộc mang đậm dấu ấn của từng vùng, từng dân tộc, phong phú, đa dạng, thống nhất trong nền văn hóa dân tộc Việt Nam.
Hàng năm, huyện Quốc Oai (Hà Nội) tổ chức tập huấn biểu diễn cồng chiêng cho đồng bào Mường |
Hệ thống chính trị ở cơ sở được xây dựng ngày càng vững mạnh. Cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng hiệu quả hơn, đáp ứng ngày càng tốt yêu cầu thực tiễn; Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số, phát triển Đảng viên và xây dựng tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị, xã hội ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi được chú trọng, góp phần đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu thực tiễn.
Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn một số hạn chế, bất cập. Kết quả thực hiện chính sách pháp luật bảo đảm và thúc đẩy quyền cho người dân tộc thiểu số còn chưa bền vững. So với sự phát triển chung của cả nước và ở từng địa phương, đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn nhiều khó khăn, kinh tế xã hội phát triển chậm; tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo và nguy cơ tái nghèo cao; khoảng cách giàu nghèo có xu hướng gia tăng; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số chưa ngang tầm với nhiệm vụ; tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số chưa đạt theo quy định, có xu hướng giảm; hủ tục, tập quán lạc hậu, mê tín dị đoan chậm được khắc phục; vẫn còn tiềm ẩn yếu tố phức tạp về an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
Nguyên nhân là do vùng dân tộc thiểu số và miền núi xuất phát điểm thấp; địa hình chia cắt, giao thông khó khăn, khí hậu khắc nghiệt; thiên tai bão lũ xảy ra thường xuyên; chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu. Bên cạnh đó, một số cấp ủy, chính quyền, cán bộ, công chức, viên chức thực thi nhiệm vụ nhận thức chưa đầy đủ về bảo đảm và thúc đẩy quyền cho người dân tộc thiểu số dẫn đến hiệu quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo chưa đáp ứng với yêu cầu thực tiễn. Chính sách, pháp luật còn bất cập, chưa khuyến khích thu hút đầu tư, chưa khai thác được tiềm năng lợi thế so sánh của vùng dân tộc thiểu số và miền núi và chưa tạo động lực để đồng bào vươn lên tự lập trong cuộc sống. Công tác quản lý nhà nước, phối hợp giữa các cấp, các ngành có nơi, có việc còn thiếu thống nhất; một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức vùng dân tộc thiểu số và miền núi chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.
Phương hướng bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số trong thời gian tới
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay đang có những tác động hết sức phức tạp đối với việc bảo đảm quyền của các nhóm dễ bị tổn thương, đặc biệt đối với quyền của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Đối diện với sự phát triển nhanh chóng của kinh tế, khoa học công nghệ, thương mại và đầu tư, một số nhóm dân tộc thiểu số dễ bị tổn thương, có nguy cơ tụt hậu và bị loại khỏi quá trình phát triển. Bên cạnh đó, các lực lượng mang tính phá hoại của toàn cầu hóa đang có khả năng làm suy yếu quyền tự quyết dân tộc, đe dọa thực sự đối với quyền được bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số. Mặt khác, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch ngày càng thâm độc, nguy hiểm. Lợi dụng các quan hệ dân tộc xuyên biên giới, sự phổ cập của công nghệ thông tin để chính trị hóa vấn đề nhân quyền, cổ vũ cực đoan cho các quyền dân sự, chính trị như tự do lập hội, hội họp, tôn giáo, tín ngưỡng, biểu tình; xuyên tạc quyền dân tộc tự quyết, kích động chủ nghĩa ly khai, thù địch, bạo lực, phá hoại nguyên tắc pháp quyền và quan hệ đoàn kết giữa các dân tộc,… Những tác động này cùng một số hạn chế trong quá trình thực thi chính sách bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số ở nước ta chưa kịp thời khắc phục sẽ tạo nên những thách thức không thể xem nhẹ.
Cùng với đó, thiên tai bất thường do biến đổi khí hậu cùng với nhiều loại dịch bệnh đã và đang gây hậu quả nặng nề, ảnh hưởng rất lớn đến phát triển kinh tế xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi, đòi hỏi phải có sự quan tâm, đầu tư lớn của Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị nhằm hạn chế, khắc phục thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh.
Trước yêu cầu mới đặt ra, ngày 30/10/2019 Bộ Chính trị ban hành Kết luận 65-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết 24-NQ/TW về công tác dân tộc trong tình hình mới; ngày 14/10/2021 Chính phủ ban hành Quyết định số 1719/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025. Đây là động lực, luồng sinh khí mới cho thực hiện công tác dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước trong 10 năm tới.
Đời sống của đồng bào dân tộc không ngừng được cải thiện nhờ chính sách hỗ trợ sản xuất của địa phương- ảnh minh họa |
Để công tác bảo đảm quyền cho người dân tộc thiểu số phát huy hiệu quả trên thực tiễn thì đây cần phải được xác định là trách nhiệm của các cấp, các ngành và người dân. Cụ thể, Nhà nước giữ vai trò quan trọng, tạo điều kiện để tất cả các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước. Bên cạnh đó cần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo và nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp uỷ, tổ chức đảng về bảo đảm và thúc đẩy quyền của người dân tộc thiểu số, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trong tình hình mới. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến bảo đảm quyền cho người dân tộc thiểu số. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; tăng cường đồng thuận xã hội; củng cố lòng tin của đồng bào với Đảng và Nhà nước, phát huy nội lực, vượt qua khó khăn, thách thức, hoà nhập và phát triển cùng với đất nước. Bảo đảm và thúc đẩy quyền cho người dân tộc thiểu số phải gắn với phát triển bền vững vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, gắn liền với xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số; thu hẹp dần khoảng cách về mức sống so với vùng phát triển; phát triển toàn diện giáo dục, đào tạo, y tế; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc góp phần đẩy lùi các tệ nạn xã hội; đảm bảo quyền và cơ hội bình đẳng giới; nâng cao mặt bằng dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, nhất là cán bộ dân tộc thiểu số đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới; đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái, nguồn nước, hệ động thực vật, thực vật, đa dạng sinh học; đặc biệt là bảo vệ và phát triển rừng; góp phần quan trọng thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, nhằm đạt được mục tiêu “không để ai bị bỏ lại phía sau”.
Các chính sách phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh vùng dân tộc thiểu số và miền núi phải toàn diện, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững và phát huy lợi thế, tiềm năng của vùng và tinh thần tự lực của đồng bào dân tộc thiểu số. Đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc; xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền, biên giới quốc gia, gắn với xây dựng tuyến biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển đối với các quốc gia trong khu vực.