Văn hóa ở các nước ASEAN cũng như ở các dân tộc trên thế giới, ngày càng đứng trước những thử thách vô cùng lớn lao đang được đặt ra với toàn thể nhân loại.
Xu thế toàn cầu hóa ngày càng diễn biến phong phú và phức tạp, ngày càng tác động đến từng dân tộc và mỗi con người. Thế giới đã nói nhiều về tính tất yếu của toàn cầu hóa, về sự phát triển kỳ diệu của trí tuệ con người, đặc biệt là của khoa học-kỹ thuật. Những phát minh, sáng chế đang tạo nên những bước nhảy vọt trong tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.
Người ta cũng nói nhiều về khả năng to lớn của các dân tộc trên con đường phồn vinh khi họ biết khai thác những thành tựu chưa từng có mà trí tuệ con người đã đem lại cho hành tinh chúng ta. Tiếc rằng, tình trạng của thế giới lại không diễn ra như người ta tưởng. Ðúng là mỗi dân tộc đều có quyền tự do khai thác những thành tựu nói trên. Tuy nhiên, sự tự do ấy lại diễn ra ở những tư thế bất bình đẳng giữa các loại nước khác nhau. Những nước giàu, với tiềm năng cực kỳ lớn về tài chính, về quân sự, về khoa học-kỹ thuật, đang có một ưu thế tuyệt đối trước những nước còn nghèo khó. Những nước này thì thiếu thốn về mọi mặt. Họ kiếm được miếng ăn cho mỗi gia đình còn khó huống chi là khả năng khai thác những thành tựu đang nằm trong tay những nước giàu, những siêu cường trên thế giới, trước hết là nước Mỹ.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, sự phát triển về khoa học-kỹ thuật lại thường kéo theo sự suy thoái về nhiều mặt khác của đời sống tinh thần. Sự sa sút về đạo đức ngày một diễn ra trầm trọng trong giao tiếp ngoài xã hội và trong sinh hoạt của mỗi gia đình, trong lối sống của từng cá nhân.
Nhiều nhà trí thức trên thế giới cho rằng: sự suy thoái về tinh thần và văn hóa này là không thể cứu chữa. Từ đó, họ nghĩ rằng, các nước còn nghèo, còn đang phát triển rồi một ngày mai sẽ công nghiệp hóa, sẽ đi vào kinh tế thị trường, thì sự suy thoái về tinh thần và đạo đức cũng là một tất yếu không ngăn cản nổi.
Liệu mỗi dân tộc và cả loài người có thể trở nên bất lực trước bức tranh đen tối này hay không? Tôi nghĩ rằng câu trả lời phải xuất phát từ lĩnh vực văn hóa, lĩnh vực bao gồm mọi tiềm năng của con người, trong cả lĩnh vực của nhận thức, của tình cảm và hành vi, ở cả cá nhân và xã hội.
Ở Việt Nam, nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đang diễn biến thuận lợi. Tuy nhiên, những cảnh tượng từng diễn ra trên thế giới tư bản cũng đã nảy sinh ở Việt Nam. Chúng ta có thể coi những hiện tượng này là tất yếu không thể ngăn chặn được chăng? Chúng ta thực sự đang đứng trước những khó khăn mà thế giới coi là nan giải này. Tuy nhiên, dân tộc ta từng trải hàng nghìn năm lịch sử, đã đem lại cho ta đầy đủ dũng khí và óc thông minh để vượt qua những khó khăn ấy.
Nhân dân Việt Nam sở dĩ tồn tại và phát triển đến ngày nay chính là do đã quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, hiểm trở. Mỗi chặng đường lịch sử là một bước trưởng thành của dân tộc, là một sự bổ sung cho truyền thống anh hùng và hệ giá trị văn hóa của dân tộc ta.
CÁCH mạng Tháng Tám chính là bước ngoặt quan trọng nhất của lịch sử Việt Nam trên con đường phát triển. Thế kỷ thứ XX là một thế kỷ đã dồn vào dân tộc ta những khó khăn lớn nhất và những thử thách chưa từng có trong lịch sử.
Cách mạng Tháng Tám mãi mãi là tấm gương sáng chói về tinh thần yêu nước, về phẩm chất nhân văn cao cả, về trí tuệ và tài năng trong quá trình vượt mọi trở ngại nhằm giải phóng đất nước, giành lại độc lập, tự do và đem lại hạnh phúc cho nhân dân.
Cách mạng Tháng Tám tập trung cao nhất truyền thống lâu đời của ông cha ta, là bài học vô giá đối với chúng ta trong những năm tháng đầy khó khăn của thế kỷ XXI này. Ðó là bài học khai thác những tiềm năng vô tận của văn hóa trong xã hội Việt Nam và ở con người Việt Nam.
Vai trò của văn hóa trong Cách mạng Tháng Tám
Chúng ta kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám, không chỉ dừng lại ở ngày 19-8 là ngày khởi nghĩa toàn quốc, mà còn là ngày đánh dấu sự thành công rực rỡ của cả cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, kéo dài 15 năm dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Ðảng, đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh.
Kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám là kỷ niệm những năm tháng chiến đấu kiên cường, gian khổ của bao chiến sĩ cách mạng dũng cảm ngoài chiến trường, bất khuất trong tù ngục với tinh thần "nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng".
Trong lúc kẻ thù nắm giữ toàn bộ thành quả kinh tế, lực lượng quân sự hùng hậu và bộ máy chính quyền tàn bạo, thì nhân dân ta với hai bàn tay không, sống trong khổ cực, đói rét. Làm thế nào đương đầu được với kẻ thù lớn mạnh và vô cùng xảo quyệt đang kìm hãm và trói buộc nhân dân Việt Nam, sẵn sàng dập tắt mọi mầm non của cách mạng?
Theo Hồ Chí Minh, yếu tố quan trọng bậc nhất để đương đầu với kẻ địch và chiến thắng bọn chúng là yếu tố tinh thần - yếu tố cơ bản trong truyền thống văn hóa của dân tộc. Người nhấn mạnh: "Có người nói: lúc này mà xem trọng tinh thần, tư tưởng là không duy vật biện chứng. Các cô các chú có biết vì sao mà cách mạng của ta thành công không? Vì tinh thần!
Lúc bấy giờ, thực dân, phong kiến có quân đội, cảnh sát, chính quyền, tất cả. Ðảng ta chỉ có hai bàn tay không. Vậy vì sao ta thành công? Vì ta đoàn kết! Lấy gì mà đoàn kết? Lấy tinh thần!
Trong kháng chiến, địch có hải, lục, không quân, ta thì về hải quân, không quân không có mà ngay lục quân thì súng đủ các loại: súng kíp, súng Nhật, súng Mỹ, súng Pháp. Ðạn cũng lung tung, thuốc men không có, cán bộ thì từ du kích mà ra. Vậy vì sao ta thắng lợi? Vì ta đoàn kết! Vì sao đoàn kết? - Là do tinh thần!
Các đồng chí chúng ta hoạt động cách mạng trong thời kỳ bí mật, khi bị địch bắt nó treo, nó kẹp, nó tra tấn, nó bắn nhưng nhất định không khai, chẳng những không nói mà còn chửi vào mặt nó. Ðấy là vật chất hay tinh thần?
Trong kháng chiến có chiến sĩ lấy thân mình lấp lỗ châu mai, hay ngay ở Hải Phòng có mấy người mà đánh được trường bay Cát Bi, thì đó là tinh thần hay vật chất? - Tinh thần!"
Chính vì sự nghiệp cách mạng của Việt Nam hết sức nặng nề và khó khăn mà Hồ Chí Minh nhấn mạnh yếu tố tinh thần và khai thác mọi tiềm năng văn hóa của nhân dân ta như: lòng yêu nước, đầu óc sáng tạo và hành động dũng cảm.
Ðể đào tạo những thế hệ thanh niên cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh trong cuốn Ðường Kách mệnh đã nêu lên hàng đầu vấn đề rèn luyện đạo đức. Và trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Người luôn luôn giáo dục lòng yêu nước thương dân, cổ vũ việc học tập và nêu cao gương người tốt, việc tốt... Nắm vững tinh thần đó, toàn thể đảng viên đã ra sức trau dồi đạo đức, rèn luyện ý chí, tích cực học tập, phát huy sức mạnh của văn hóa trong sự nghiệp cách mạng.
Dưới sự lãnh đạo của Ðảng, nhân dân ta đã ngày càng nâng cao tinh thần yêu nước, ý chí chiến đấu và niềm tin tưởng tuyệt đối vào thắng lợi cuối cùng. Ðó là biểu hiện quan trọng bậc nhất của văn hóa theo nghĩa chân chính của từ này.
Ðể phát huy một cách đầy đủ sức mạnh của văn hóa dân tộc, Ðề cương văn hóa năm 1943, đã coi văn hóa là một mặt trận chiến đấu và tích cực xây dựng và củng cố trận địa này trong những năm tháng chuẩn bị Tổng khởi nghĩa. Ðề cương kiên quyết gạt bỏ sự nô dịch của văn hóa thực dân, phong kiến và phát-xít, làm sống lại và nâng cao hơn nữa sức mạnh truyền thống văn hóa của Việt Nam. Ảnh hưởng lớn lao của Ðề cương văn hóa năm 1943 đã được đông đảo nhà nghiên cứu Việt Nam nói nhiều qua các sách báo, nhất là trong các cuộc hội thảo 40 năm, 50 năm, và 60 năm ngày ra đời của Ðề cương. Cho đến nay, nhiều công trình nghiên cứu đã được xuất bản đề cập đến mọi lĩnh vực của Cách mạng Tháng Tám. Nhưng trong tình hình của đất nước ta và của thế giới ngày nay, cần tiếp tục đi sâu hơn nữa tìm hiểu vai trò cực kỳ quan trọng của văn hóa trong Cách mạng Tháng Tám và vai trò của Cách mạng Tháng Tám trong sự nghiệp văn hóa từ đó đến nay.
Từ Cách mạng Tháng Tám đến Nghị quyết T.Ư 5
Cách mạng Tháng Tám mở đầu cho một thời kỳ mới của văn hóa Việt Nam. Cuộc biến đổi mang ý nghĩa cách mạng này của văn hóa Việt Nam là sự xóa bỏ triệt để những tàn dư phản động của văn hóa phong kiến, thực dân và phát-xít. Nó phủ định quá khứ mà kế thừa những tinh hoa văn hóa mà quá khứ để lại. Nó tiếp thu và nâng cao những phẩm chất anh hùng và văn hiến của ông cha và hiện đại hóa những truyền thống ấy trong hoàn cảnh lịch sử mới. Nó phá vỡ sự trì trệ mà các chế độ cũ đã ràng buộc văn hóa, xã hội và con người Việt Nam.
Ý nghĩa nhân văn lớn lao của Cách mạng Tháng Tám trước hết ở chỗ nó không chỉ giải phóng về kinh tế và chính trị mà còn giải phóng về tư tưởng và văn hóa cho mỗi người Việt Nam. Lần đầu tiên trong lịch sử, nó đập tan sự thống trị của các giai cấp bóc lột và đưa nhân dân lao động lên làm chủ đất nước vì lợi ích của người lao động và của cả dân tộc, của mỗi con người.
Ý thức được những điều nói trên, chính quyền cách mạng ngay từ những ngày đầu tiên đã tập trung vào những vấn đề văn hóa với những quan điểm mới và biện pháp mới.
Văn hóa, được hiểu theo một nghĩa rộng bao trùm lên mọi vấn đề của cuộc sống. Không phải ngẫu nhiên mà định nghĩa của Hồ Chí Minh về văn hóa cách đây hơn nửa thế kỷ lại phù hợp với định nghĩa của UNESCO mà thế giới đang thừa nhận:
"Ý nghĩa của văn hóa: Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn".
Vai trò của văn hóa không chỉ dừng lại ở thượng tầng kiến trúc mà còn thâm nhập vào cả cơ sở hạ tầng. Ðiều này đã ngày càng sáng tỏ trên phạm vi thế giới. Nhưng cách đây 50 năm mà nói như Chủ tịch Hồ Chí Minh thì đó là một cái nhìn vừa xa rộng, vừa sâu sắc: "Văn hóa nằm trong cả kinh tế và chính trị". (Phát biểu của Hồ Chủ tịch tại Ðại hội Văn hóa lần thứ nhất được ghi lại trên báo Cứu Quốc số 24 tháng 11- 1946).
Tinh thần trên đây đã thể hiện ở chính sách văn hóa của Ðảng và Nhà nước từ ngay sau Cách mạng Tháng Tám.
Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng một lúc phát động cả ba phong trào: Chống giặc đói, chống giặc dốt, chống giặc ngoại xâm, thì Người đã nhìn nhận vấn đề văn hóa một cách toàn diện. Nhìn nhận sâu sắc này quán triệt trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội và hướng sự phấn đấu của con người vào cả ba mục tiêu: chiến đấu, lao động và học tập.
Trên cơ sở những viên gạch đầu tiên của nền văn hóa Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám, đường lối của Ðảng về văn hóa ngày một sâu sắc và hoàn chỉnh. Chủ nghĩa Mác và văn hóa của Cố Tổng bí thư Trường Chinh cùng những thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Ðảng gửi các Ðại hội và Hội nghị về văn hóa, văn nghệ, khoa học, giáo dục..., đã phát huy sức mạnh văn hóa và tinh thần của toàn dân qua hai cuộc kháng chiến, góp phần đáng kể vào sự nghiệp giành lại hoàn toàn độc lập và thống nhất của Tổ quốc Việt Nam.
Sự nhạy bén và kịp thời của Ðảng trong sự nghiệp đổi mới gần 20 năm qua không tách rời trình độ văn hóa của Ðảng ta và nhân dân ta, đặc biệt là sự phát huy trí tuệ, một bộ phận quan trọng bậc nhất của văn hóa Việt Nam. Kết thúc thế kỷ XX, có thể coi là thế kỷ của Cách mạng Tháng Tám, Ðảng ta đã ban hành Nghị quyết T.Ư 5 (khóa VIII). Có thể nói đây là Nghị quyết đã khép lại thế kỷ XX và rọi soi vào thế kỷ 21 trên con đường tiến lên của văn hóa Việt Nam. Trên cơ sở đánh giá tình hình văn hóa Việt Nam trong bối cảnh của thế giới, Nghị quyết đã tổng kết thành tựu và kinh nghiệm lãnh đạo văn hóa của Ðảng từ ngày Ðảng ra đời và nêu lên những phương hướng đúng đắn cho việc giải quyết những vấn đề văn hóa đang đặt ra cho thế kỷ 21 ở Việt Nam. Nghị quyết cũng là một bước phát triển mới của đường lối văn hóa Việt Nam từ Cách mạng Tháng Tám. Trong các vấn đề phong phú mà Nghị quyết đã đặt ra, tôi chỉ nêu ở đây một số vấn đề, cần nhận biết một cách sâu sắc nhất.
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Ðây là sự khẳng định một lần nữa vai trò rộng lớn của văn hóa trong đời sống xã hội và nêu tư tưởng này thành một nguyên lý.
Văn hóa không chỉ ở trên thượng tầng mà còn nằm trong nền tảng. Ðó là nền tảng tinh thần của xã hội, sánh ngang với nền tảng vật chất của xã hội là kinh tế. Kinh tế và văn hóa là hai nền tảng của xã hội tác động lẫn nhau, bổ xung cho nhau và cùng thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Quan điểm này mang một ý nghĩa quan trọng. Nó thức tỉnh toàn xã hội ta trước tình hình mới của dân tộc và thời đại. Nó trở thành phương châm cho mọi suy nghĩ, mọi chủ trương, mọi hành động. Bất cứ cấp nào, ngành nào, địa phương nào, cá nhân nào không nắm được nguyên tắc này, chắc chắn khó tránh khỏi sai lầm khuyết điểm trong công việc chung cũng như trong đời sống riêng tư.
Trên quan điểm mới này, Nghị quyết đã đánh giá lại tình hình về mọi mặt của văn hóa Việt Nam, đề ra và giải quyết một loạt vấn đề cấp thiết trên mọi lĩnh vực của văn hóa Việt Nam. Nghị quyết đã nêu lên những nét cơ bản của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc. Văn hóa Việt Nam đang trở thành một sức mạnh để đưa đất nước đi lên và đương đầu với những thách thức và diễn biến phức tạp của văn hóa trên toàn thế giới ngày nay.
Văn hóa Việt Nam ngày nay trong giao lưu quốc tế
Từ xa xưa, nền văn hóa Việt Nam đã tồn tại và phát triển không phải trong một hoàn cảnh khép kín của dân tộc. Nó luôn luôn vận động dưới tác động qua lại giữa nhân tố nội sinh và ngoại sinh, trong quan hệ giao lưu với các nước trong khu vực và trên thế giới. Sự giao lưu này là tất yếu và sự thâu hóa những nhân tố bên ngoài, là một trong những điều kiện để văn hóa Việt Nam phát triển.
Trong lịch sử phát triển của mình, dân tộc Việt Nam đã có những thuận lợi lớn là sống trên một địa bàn luôn luôn có sự giao thoa giữa các nền văn minh, giữa các trào lưu tư tưởng và văn hóa. Giữa Ðông-Nam Á và Ðông Á, rồi giữa Ấn Ðộ và Trung Hoa. Trong thời kỳ Pháp thuộc là giữa phương Ðông và phương Tây. Trong sự nghiệp cách mạng của Việt Nam, giữa xu hướng tư bản chủ nghĩa và xu hướng xã hội chủ nghĩa. Hoàn cảnh trên đây là trường hợp thuận lợi hiếm có trong giao lưu văn hóa trên phạm vi thế giới. Dân tộc Việt Nam từ xưa đã biết khai thác thuận lợi nói trên để phát huy sức mạnh của bản thân mình, tiếp nhận được những nhân tố tích cực của nhiều nước khác và từ đó xây dựng cho mình một bản sắc văn hóa vững bền và dồi dào sức sống.
Ngày nay, giành lại được chủ quyền dân tộc sau Cách mạng Tháng Tám, Nhà nước cùng toàn thể nhân dân Việt Nam vừa phát huy mọi tiềm năng vật chất và văn hóa của bản thân mình, vừa mở rộng sự giao lưu quốc tế để chọn lọc và tiếp nhận những nhân tố tiến bộ của văn hóa nước ngoài.
Trong bối cảnh của toàn cầu hóa đang diễn ra sôi động trên toàn thế giới, văn hóa cũng như kinh tế Việt Nam chủ động mở cửa và hội nhập cùng các nước trên thế giới với tinh thần độc lập và tự chủ. Là một nền văn hóa tiên tiến, văn hóa Việt Nam tích cực khai thác những thành tựu của nhân loại, nhanh chóng khắc phục những yếu kém của mình để vươn lên. Mặt khác, văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc, giữ vững bản lĩnh của mình trước mọi chiều hướng tiêu cực và phản động đang lan tràn trên thế giới.
Từ mấy thập kỷ vừa qua, toàn cầu hóa đã tạo nên những biến đổi sâu sắc vừa thuận lợi, vừa khó khăn và ngày càng bộc lộ những nét tương đồng và khác biệt giữa các dân tộc trên lĩnh vực văn hóa. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh thế giới chưa thực sự hòa bình và ổn định như ngày nay, mâu thuẫn về quyền lợi kinh tế và chính trị đang khiến cho sự giao lưu văn hóa không khỏi có những khó khăn và thiếu lành mạnh.
Với những tham vọng về kinh tế và chính trị, một số nước lớn đã biến văn hóa thành một phương tiện nô dịch, một vũ khí tiến công, một món ăn độc hại trong đời sống tinh thần của các nước khác. Trong tình hình này, mỗi nước tùy theo hoàn cảnh của mình, phải có những đường lối đối ngoại và những biện pháp thích hợp trong giao lưu văn hóa để tránh được những hậu quả không hay và đem lại cho đất nước những điều kiện cần thiết.
Trong Thập kỷ Văn hóa do UNESCO phát động vào những năm cuối thế kỷ XX, giới khoa học Việt Nam đã cùng với đông đảo các nhà văn hóa tiến bộ trên thế giới chống lại sự đồng hóa về văn hóa, thực tế là chống lại sự thủ tiêu những đặc trưng của các nền văn hóa dân tộc. Việt Nam đã mở những cuộc hội thảo để bảo vệ tính độc lập và bản sắc dân tộc của các nền văn hóa trên thế giới, và đấu tranh cho sự phát triển phong phú và đa dạng của văn hóa trên toàn thế giới. Từ đó chúng ta càng tích cực hơn trong việc phát hiện và nâng cao những di sản văn hóa quý báu của dân tộc Việt Nam nói chung và của 54 dân tộc anh em trên mảnh đất này.
Chúng ta đã cùng với các nhà văn hóa tiến bộ trên thế giới không chấp nhận tính tất yếu của cái gọi là xung đột giữa các nền văn minh trong đó có sự xung đột giữa các sắc tộc và các tôn giáo. Nhân dân trong các sắc tộc và các tôn giáo thực ra không có lợi ích cơ bản nào để xung đột lẫn nhau. Sự xung đột đó hầu hết là do sự khích động của các tập đoàn kinh tế và chính trị, xuất phát từ lợi ích ích kỷ của bản thân họ. Chúng ta đã từng tham dự nhiều hội thảo quốc tế và đứng về phía những trào lưu tư tưởng tiến bộ cùng đấu tranh cho sự đối thoại chứ không phải sự đối đầu và xung đột giữa các nền văn minh. Tuần lễ Văn hóa ASEAN vừa qua chính là sự khẳng định bằng hành động xu hướng đối thoại ấy giữa các nền văn minh.
Nhân dân ta sẽ ngày càng củng cố tình hữu nghị với các nước anh em trong khu vực, cùng tiếp thu những giá trị văn hóa của các dân tộc và những thành quả văn hóa tiến bộ trên toàn thế giới. Phát triển những truyền thống tốt đẹp và không ngừng nâng cao bản sắc vững vàng của văn hóa dân tộc, chúng ta sẽ ngày một thực hiện thắng lợi lý tưởng của Cách mạng Tháng Tám là bảo vệ độc lập, tự do của dân tộc và hòa bình, hữu nghị trên thế giới.