Nhân cơ hội Nhật tiến đánh Lạng Sơn ngày 22-9-1940, quân Pháp ở đây tan rã, quần chúng đã tự nổi dậy tước vũ khí của tàn binh Pháp. Khí thế cách mạng của quần chúng lên cao. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của các đảng viên ở địa phương, đêm 27-9-1940, hàng trăm đồng bào các tộc Tày, Dao, Nùng, Kinh... đã bao vây, tiến công đồn Mỏ Nhài (châu lỵ Bắc Sơn). Tri châu và quân lính chạy trốn. Quân khởi nghĩa chiếm châu lỵ, xóa bỏ chính quyền của địch. Nhưng ngay sau đó, Nhật - Pháp thỏa hiệp với nhau để Pháp quay chiếm lại Bắc Sơn và tiến hành khủng bố đàn áp quân khởi nghĩa.
Xứ ủy Bắc Kỳ kịp thời chỉ đạo lực lượng khởi nghĩa ở Bắc Sơn: Phải duy trì lực lượng vũ trang, thành lập đội du kích, đấu tranh chống địch khủng bố, bảo vệ nhân dân, phát triển lực lượng, phát huy ảnh hưởng của cuộc khởi nghĩa. Thực hiện chỉ thị đó, quân du kích phân tán thành nhiều bộ phận để chiến đấu và tiếp tục hoạt động, lấy vùng Bắc Sơn - Võ Nhai làm trung tâm căn cứ.
Ngày 14-2-1941, Trung đội du kích Bắc Sơn (2) gồm 32 chiến sĩ, chính thức làm lễ thành lập ở khe Khuổi Nọi (xã Vũ Lễ, Bắc Sơn). Vượt qua mọi gian lao nguy hiểm, trong khi thực dân Pháp đang tung lực lượng binh lính và mật thám bao vây khu căn cứ, khủng bố quân khởi nghĩa, các chiến sĩ du kích Bắc Sơn đã hoàn thành nhiệm vụ đặc biệt, đưa các đồng chí trong Trung ương Ðảng đến họp Hội nghị và trở về xuôi an toàn để lãnh đạo và tổ chức nhân dân thực hiện Nghị quyết lịch sử của Trung ương.
Thực hiện Nghị quyết của Trung ương, xây dựng Bắc Sơn - Võ Nhai và Cao Bằng thành hai trung tâm cách mạng tại Việt Bắc, đồng chí Phùng Chí Kiên - Ủy viên Trung ương Ðảng - được cử về cùng với các đồng chí Lương Văn Chi, Chu Văn Tấn mở rộng khu căn cứ du kích Bắc Sơn. Cuộc chiến đấu chống lại quân địch từ Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Giang tiến công vào khu căn cứ của quân du kích Bắc Sơn đã diễn ra quyết liệt. Ðồng chí Phùng Chí Kiên hy sinh, đồng chí Lương Văn Chi bị thương, bị bắt và hy sinh trong nhà tù. Những chiến sĩ du kích ở lại tiếp tục hoạt động, khắc phục mọi khó khăn, dựa vào nhân dân để chiến đấu và tiếp tục đưa phong trào tiến lên. Ðồng chí Hoàng Quốc Việt, trước khi về xuôi đã thay mặt Trung ương Ðảng, quyết định thành lập Trung đội Cứu Quốc quân II - gồm 47 chiến sĩ (có ba đồng chí nữ). Lễ thành lập chính thức được tổ chức ngày 15-9-1941 tại Khuôn Mánh (xã Tràng Xá, Võ Nhai, Thái Nguyên). Ban chỉ huy đội có Lê Dục Tôn, Nguyễn Cao Ðàm, do Chu Văn Tấn là trung đội trưởng. Ðịch ra sức vây càn. Lực lượng chênh lệch, Cứu quốc quân phải di chuyển liên tục để tránh sự khủng bố của địch. Ðịch treo giải thưởng bằng muối, bằng tiền, bằng gạo cho ai bắt hoặc chỉ điểm cho chúng bắt Cứu quốc quân. Chúng còn khủng bố bằng nhiều hình thức đánh vào tín ngưỡng, tinh thần của bà con nhưng quần chúng nhân dân không sợ thiếu thốn, nguy hiểm vẫn đùm bọc, che chở các chiến sĩ như con em ruột thịt của mình. Nhiều người bị địch bắt, bị tra hỏi vẫn không để lộ bí mật, bảo vệ cho đội quân cách mạng. Nhiều lần các chiến sĩ đi qua bản, bà con lại vờ cuốc nương, kiếm củi để xóa dấu vết, tránh sự truy lùng khủng bố của kẻ thù. Trong sự tin tưởng, thương yêu che chở, của nhân dân, Cứu quốc quân vừa đánh địch chống vây, chống càn vừa củng cố xây dựng lực lượng, vừa mở rộng địa bàn tuyên truyền vận động quần chúng gây dựng phong trào.
Theo chỉ thị của Hồ Chí Minh và quyết định của liên tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng, nhiệm vụ Nam tiến mở những "hành lang" liên lạc được thực hiện một cách khẩn trương. Các đội xung phong Nam tiến nhanh chóng được thành lập, mở đường tiến về xuôi từ Cao Bằng, từ khu căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai. Hai đường liên lạc nối liền căn cứ Cao Bằng với Bắc Sơn - Võ Nhai gặp nhau ở xã Nghĩa Tà, hợp lại thành con đường giao thông riêng của cách mạng ôm vòng lấy ba tỉnh Cao - Bắc - Lạng. Ðịa bàn hoạt động của Cứu quốc quân không còn hạn hẹp trong phạm vi khu căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai mà đã mở rộng sang cả Ðịnh Hóa - Sơn Dương, hợp cùng với căn cứ Cao Bằng thành thế chân kiềng vững chắc. Trên cơ sở đó, ngày 25-2-1944, trung đội Cứu quốc quân III gồm 24 chiến sĩ do Triệu Khánh Phương chỉ huy được thành lập tại Khuổi Kịch, (Sơn Dương, Tuyên Quang)...
Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ của Ðảng (4-1945) do đồng chí Trường Chinh chủ trì đã quyết định hợp nhất hai lực lượng Cứu quốc quân và Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân thành Việt Nam giải phóng quân - lực lượng vũ trang chính quy thống nhất đầu tiên của cách mạng. Ngày 15-5-1945, lễ thành lập Việt Nam giải phóng quân đã long trọng diễn ra tại Ðịnh Biên Thượng, Ðịnh Hóa, Thái Nguyên. Lực lượng lúc này đã lên tới 13 đại đội với hàng chục tấn vũ khí và đạn dược cướp được của địch. So với quân đội ngày nay thì chẳng đáng bao nhiêu nhưng trong buổi đầu trứng nước thì đó là cả một niềm tự hào.
Trải qua hơn bốn năm vừa chiến đấu và xây dựng, Cứu quốc quân ngày càng lớn mạnh. Từ những cuộc đấu tranh chống địch khủng bố, bảo vệ căn cứ, bảo toàn lực lượng, bảo vệ nhân dân, Cứu quốc quân dần lớn mạnh, trở thành chỗ dựa nòng cốt cho phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng. Các đội viên Cứu quốc quân sát cánh cùng nhân dân xây dựng căn cứ địa cách mạng, góp phần thành lập khu giải phóng đầu tiên, đẩy mạnh phong trào đấu tranh tiến dần tới Tổng khởi nghĩa. "Tiếng súng Bắc Sơn" từ tháng 9-1940 không tắt mà còn vang xa, mạnh lên như tiếng sấm báo hiệu giông tố cách mạng đang tích tụ, báo hiệu Tổng khởi nghĩa đang đến gần.
-------------
(1) Hồ Chí Minh - Toàn tập. NXB CTQG. H 1995, tập 3, tr.173, 174.
(2) Sau Hội nghị lần thứ 8 của BCH T.Ư, Trung đội du kích Bắc Sơn được gọi là Trung đội Cứu Quốc quân I.