1- GDP vượt mức kế hoạch cả năm và cao nhất 5 năm qua
Sau ba năm liên tiếp 2011, 2012 và 2013 không đạt kế hoạch GDP, năm 2014, Việt Nam đạt kế hoạch tăng GDP, còn năm 2015, GDP ước tăng hơn 6,50%, tức cao nhất và lần đầu tiên trong 5 năm qua vượt mức kế hoạch đặt ra là 6,2%.
Quy mô GDP theo giá hiện hành năm 2015 đạt khoảng 204 tỷ USD, bình quân đầu người 2.228 USD (tính theo sức mua ngang giá là hơn 5.600 USD). Tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP chiếm 82,5%. Tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội còn 45%. Đầu tư công giảm từ 35,5% năm 2010 xuống còn khoảng 30% năm 2015, đầu tư của dân cư và doanh nghiệp trong nước tăng từ 36,1% lên 42%.
Quy mô thị trường chứng khoán tăng, mức vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt khoảng 33% GDP và thị trường trái phiếu đạt khoảng 23% vào cuối năm 2015.
Điều cần nhấn mạnh, so sánh bốn năm qua cho thấy, tốc độ tăng GDP nhanh hơn hơn tốc độ tăng vốn đầu tư xã hội hàng năm, tức trị số ICOR và hiệu quả đầu tư xã hội chung đang được cải thiện tích cực; cụ thể: năm 2015, tổng vốn đầu tư toàn xã hội bằng khoảng 31,2% GDP theo giá hiện hành, trong khi tốc độ tăng GDP là hơn 6,5%, so với con số tương ứng năm 2014 là bằng 31% GDP và 5,98% GDP; năm 2013 là 30,4% GDP và 5,42% GDP; năm 2012 là 33,5% GDP và 5,03% GDP...
2- Lạm phát thấp nhất trong 14 năm, nợ xấu thấp nhất 5 năm qua
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 11-2015 tăng 0,07% so với tháng trước; tăng 0,58% so với tháng 12-2014 và tăng 0,34% so với cùng kỳ năm 2014. Chỉ số CPI bình quân 11 tháng năm nay tăng 0,64% so cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản tháng 11-2015 tăng 0,05% so với tháng trước và tăng 1,72% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân 11 tháng năm 2015 tăng 2,08% so với bình quân cùng kỳ năm 2014 và thấp nhất trong 14 năm qua.
Lạm phát thấp chủ yếu do hiệu ứng của chính sách đầu tư công; sự tuân thủ quy luật lưu thông tiền tệ; nỗ lực cải thiện môi trường và giảm chi phí kinh doanh cho doanh nghiệp; gia tăng các hoạt động khuyến mãi, giảm giá, quản lý thương mại và hoạt động bình ổn giá các mặt hàng thiết yếu, cũng như do giá nhập khẩu nhiều nguyên liệu đầu vào thế giới.
Kiểm soát nợ xấu tín dụng ở Việt Nam có cải thiện tích cực theo hướng cơ cấu và quy mô nợ xấu được nhận diện chính xác và đầy đủ hơn, giảm về tỷ lệ và gia tăng các biện pháp xử lý quyết liệt, toàn diện và mang tính thị trường hơn.
Việt Nam đã nới “room” sở hữu và điều kiện kinh doanh động sản cho người nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài; tăng kiểm soát giảm thiểu quy mô, mặt trái của tình trạng sở hữu chéo và tình trạng sở hữu cổ phần vượt tỷ lệ cho phép, tăng sự minh bạch trong hoạt động kinh doanh ngân hàng; thúc đẩy các hoạt động sáp nhập, hợp nhất, mua lại các TCTD trên nguyên tắc tự nguyện và bắt buộc theo quy định của pháp luật, trong đó có cả việc NHNN mua lại ba NHTM với giá 0 đồng; khuyến khích mua bán nợ và công cụ nợ phái sinh trên thị trường thứ cấp; Mở rộng khả năng cho các công ty mua bán nợ (VAMC) tiến hành mua - bán nợ xấu theo đúng giá trị và cơ chế thị trường; tăng trần hạn mức tín dụng và cho phép khoanh nợ, giãn nợ và xóa một số khoản nợ xấu, mở rộng cho vay và nới lỏng hơn điều kiện vay...
Dư nợ tín dụng tăng 17%, cao nhất kể từ năm 2011. Nợ xấu ngân hàng giảm còn khoảng 2,9% tổng dư nợ toàn ngành so với mức trên 17% năm 2011. Cán cân thanh toán quốc tế thặng dư khá cao; dự trữ ngoại hối năm 2015 đạt mức cao nhất từ trước đến nay.
Tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế Fitch Ratings, tháng 11-2015, công bố đánh giá tín nhiệm nhà phát hành nợ dài hạn bằng ngoại tệ và nội tệ (IDRs) của Việt Nam ở mức BB- với triển vọng ổn định. Thâm hụt ngân sách trong năm 2016 sẽ là 5,4% GDP.
3- Môi trường kinh doanh, chỉ số cạnh tranh và kinh tế đối ngoại có nhiều khởi sắc rõ rệt
Năm 2015, môi trường và cơ hội kinh doanh Việt Nam có sự cải thiện đáng kể nhờ sự ấm trở lại của thị trường bất động sản, tăng sức mua thị trường trong nước và giảm nhẹ chi phí kinh doanh, giảm thuế, giảm mặt bằng lãi suất cho vay sự gia tăng tự do hóa đầu tư (giảm từ 49 còn sáu lĩnh vực hạn chế đầu tư); Đặc biệt, từ 1-7-2015, khi Luật Đầu tư 2014 chính thức có hiệu lực, có tới 3.299 điều kiện kinh doanh tại các thông tư, quyết định của các bộ, ngành bị bãi bỏ và hết hiệu lực thi hành trong số 6.475 điều kiện kinh doanh thuộc các cấp độ khác nhau. Từ nay, chỉ có ba cơ quan gồm Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ mới có quyền ban hành các quy định về điều kiện kinh doanh.
Năm 2015, ngành Thuế đã giảm thêm 50 giờ nộp thuế của doanh nghiệp (hiện còn 117 giờ, bằng mức trung bình khu vực ASEAN-6). Hiện tại, hơn 98% các doanh nghiệp đã kê khai thuế qua mạng; trên 80% doanh nghiệp đã nộp thuế theo phương thức điện tử; hơn 98% kim ngạch xuất nhập khẩu đã được thông quan điện tử.
Những cải thiện môi trường đầu tư Việt Nam đã được thế giới ghi nhân. Việt Nam tăng ba bậc so với năm trước, xếp thứ 90/189 quốc gia, trong Báo cáo chỉ số Môi trường kinh doanh (Doing Bussiness 2016) do WB công bố ngày 28-10-2015; với cải thiện ở năm chỉ số: Khởi sự kinh doanh (tăng sáu bậc, từ 125 của năm ngoái lên thứ hạng 119); tiếp cận điện năng (tăng 22 bậc, từ 130 lên 108); tiếp cận tín dụng (tăng tám bậc, từ 36 lên 28); nộp thuế (tăng bốn bậc, từ 172 lên mức 168).
Đặc biệt, Việt Nam tăng 12 bậc (xếp thứ 56) so với năm ngoái (xếp thứ 68) trong báo cáo Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) về năng lực cạnh tranh (GCR) 2015-2016 vừa công bố hôm 29-9-2015.
Theo Báo cáo Tổng cục Thống kê, Chỉ số năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP), giai đoạn 2011-2015, của Việt Nam đạt bình quân 28,94%/năm. Năng suất lao động tăng bình quân 3,8%/năm. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam năm 2015 tăng 19 bậc so với năm 2010.
Năm 2015 chứng kiến những sự kiện lớn về kinh tế đối ngoại của Việt Nam, như ký FTA Việt Nam - Liên minh hải quan Nga-Belarus-Kazaxtan; kết thúc chính thức đàm phán FTA Việt Nam - Hàn Quốc, FTA Việt Nam EU và TPP; hình thành AEC.
Đến nay, Việt Nam đã mở rộng quan hệ thị trường thương mại tự do với 55 quốc gia và nền kinh tế, trong đó có 15 quốc gia trong Nhóm G-20. Việt Nam cũng đã được 59 quốc gia công nhận có nền kinh tế thị trường…
Thu hút FDI đang có sự cải thiện rõ rệt cả về vốn đăng ký mới, vốn mở rộng và vốn thực hiện, cũng như cơ cấu lĩnh vực và chủ đầu tư. Tính đến 20-11-2015, cả nước có 1.855 dự án FDI mới, tổng vốn đăng ký 13,55 tỷ USD, tăng 30% về số dự án và tăng 1,1% về số vốn so với cùng kỳ năm 2014; có 692 lượt dự án mở rộng vốn đạt 6,67 tỷ USD. Tổng vốn đăng ký mới và vốn mở rộng đạt 20,22 tỷ USD, tăng 16,7% so với cùng kỳ năm trước. FDI thực hiện ước đạt 13,20 tỷ USD, tăng 17,9% so với cùng kỳ năm 2014.
Khu vực doanh nghiệp trong nước ghi nhận sự cải thiện rõ rệt cả về số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới; số vốn đăng ký và số vốn tăng thêm và số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, cùng số việc làm mới của các doanh nghiệp thành lập mới. Số doanh nghiệp gặp khó khăn buộc phải tạm ngừng hoạt động giảm, thể hiện sự nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp và hiệu quả của các giải pháp chỉ đạo điều hành của Chính phủ theo tinh thần Nghị quyết 19/NQ-CP ngày 18-3-2014 và Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 12-3-2015 về hỗ trợ doanh nghiệp…
Tính chung 11 tháng, cả nước có 86.853 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, với tổng vốn đăng ký là 538,7 nghìn tỷ đồng, tăng 28,1% về số doanh nghiệp và tăng 37,7% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2014.
Bên cạnh đó, có 742,2 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm. Số lao động dự kiến được tạo bởi các doanh nghiệp thành lập mới tăng 32,9% so với cùng kỳ năm 2014. Số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động là 18646 doanh nghiệp, tăng 31,2% so với cùng kỳ năm trước. Số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động sản xuất, kinh doanh là 8.468 doanh nghiệp, giảm 2,2% so với cùng kỳ năm trước.
Tuy nhiên, với 62.713 doanh nghiệp, tăng 21,4% so với cùng kỳ năm trước, dù vì nhiều lý do khác nhau, song cũng cho thấy bức tranh khu vực doanh nghiệp trong nước không chỉ có mầu hồng...