Đã 31 năm kể từ ngày 30-4-1975, Ngày toàn thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc ta. Từ đó đến nay, và chắc hẳn là từ nay về sau, đã và sẽ còn không biết bao nhiêu quyển sách, bài báo, chương trình phát thanh, truyền hình nói tới cuộc chiến tranh này. Ðã và sẽ còn không biết bao nhiêu chính khách, sử gia, nhà quân sự, nhà khoa học, nhà kinh tế, nhà báo, nhà văn, nghệ sĩ đề cập tới cuộc chiến tranh bằng những nhận định, đánh giá, cảm nghĩ của riêng mình.
Với đất nước và dân tộc ta, có lẽ không có sự đánh giá nào có tính khái quát cao, rõ ràng và mạch lạc, đúng đắn và sâu sắc như đánh giá của Ðảng ta tại Ðại hội toàn quốc lần thứ IV của Ðảng: "Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời của sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ 20, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc".
Với nước Mỹ, dường như tình hình ngược lại. Giữa nhà cầm quyền và nhân dân, giữa Chính phủ và các nhà lập pháp, giữa chính khách và báo giới, giữa những nhà nghiên cứu và các tướng lĩnh cầm quân, hầu như không có một tiếng nói chung, một nhận định hay đánh giá nào thống nhất. Thực tế mà ai cũng phải thừa nhận là cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam đã thất bại và "hội chứng Việt Nam" tác động nặng nề đến xã hội Mỹ trong nhiều năm, thậm chí đến nay, chưa thể nói là đã chữa trị được.
Ngày 5-3 mới đây, Ðài Tiếng nói Hoa Kỳ có đưa ra nhận xét: "Trong những cuộc chiến tranh có sự tham dự của Mỹ ở nước ngoài, chưa có cuộc chiến nào lại được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong thời gian gần đây bằng cuộc chiến tranh Việt Nam".
Và ngày 10-3, tại Thư viện Tổng thống John F Kennedy ở thành phố Boston, hàng trăm chuyên gia nghiên cứu về sự dính líu của Mỹ vào cuộc chiến tranh Việt Nam đã tổ chức hội thảo để cắt nghĩa vì sao nước Mỹ đã dính líu vào Ðông Dương nửa thế kỷ trước đây, phân tích vai trò của các vị Tổng thống Mỹ trong cuộc chiến và nghiên cứu những bài học rút ra từ sự dính líu đầy tai họa này của Washington. Hội nghị được đặt tên là "Việt Nam và chức vụ Tổng thống", quy tụ một số trong những kiến trúc sư danh tiếng nhất của giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh, trong đó có cựu Bộ trưởng Ngoại giao Henry Kissinger và nhà báo lớn David Halberstam, tác giả cuốn sách nổi tiếng về những năm đầu của cuộc chiến tranh "The Best and the Brightest", có nghĩa là "Những người tài ba và xuất sắc nhất". Tham dự còn có Tổng thống Jimmy Carter, cựu Ðại sứ Việt Nam Pete Peterson,...
Bà Deborah Leff, Giám đốc Thư viện, khai mạc hội nghị đã phát biểu: "Chắc chắn là khi các vị Tổng thống của Hoa Kỳ dìm nước Mỹ ngày càng sâu vào cuộc chiến tranh Việt Nam, họ tin rằng họ đang làm điều phải. Vì sao họ lại sẵn sàng đánh liều đến như thế? Họ có nên làm như vậy không? Và tại sao họ không đạt được mục tiêu của họ? Khi nào thì họ bắt đầu thấy được những hậu quả không ngờ trước của những quyết định của họ? Và khi nào thì họ bắt đầu đánh giá lại những bước đi kế tiếp? Chiến tranh đó có phải là một sự nghiệp cao cả, như Tổng thống Ronald Reagan đã mô tả nó trong thập niên 1980? Hay như một trong các sử gia mà chúng ta sẽ được nghe trình bày trong chiều hôm nay đã viết, nó chỉ là một sự tính toán sai lầm về chính sách trong lịch sử đối ngoại của nước Mỹ?".
Vẫn theo Ðài Tiếng nói Hoa Kỳ, ba diễn giả đầu tiên của cuộc hội thảo là ba sử gia của các trường đại học Mỹ. Cả ba đều đặt dấu hỏi: "Liệu lịch sử đã có thể viết một cách khác tại Việt Nam hay không, nếu Tổng thống F.Roosevelt, rõ ràng là một người chống chủ trương thuộc địa, được sống lâu hơn, hay hoặc Tổng thống Kennedy đã không bị ám sát?". Giáo sư Robert Suding thuộc Ðại học Colorado đặt thẳng vấn đề: không rõ nỗ lực mang lại dân chủ cho Việt Nam có đúng với cái giá phải bỏ ra hay không? Ông nói: "Có bao giờ có cuộc chiến tranh nào có thể được xem là chính đáng hay không? Tôi không phải là một người chủ hòa, và tôi nghĩ là có một vài cuộc chiến tranh là chính đáng. Nhưng tôi có nghĩ rằng cuộc chiến tranh Việt Nam là chính đáng không? Câu trả lời là không".
Một diễn giả khác, Giáo sư lịch sử Marilyn B. Young ở Ðại học New York nói: "Người Việt Nam đã thắng". Còn ông Kisinger thì biện hộ: "Chúng ta đã đánh bại chính mình, vì sự chia rẽ" trong nhân dân Mỹ. Và trong một tiết lộ gây chấn động, ông cho biết, Mỹ có thể vẫn tiếp tục cuộc chiến tranh nếu không có vụ Watergate làm cho Chính phủ Nixon đổ nhào. Trong khi đó, ở bên ngoài Thư viện Kennedy, có một nhóm người biểu tình đòi đem Kissinger ra xử như một tội nhân chiến tranh. Họ hô lớn: "Kissinger ông không thể trốn, chúng tôi kết án ông về tội diệt chủng". Tại diễn đàn hội thảo, cũng có những khoảnh khắc căng thẳng từ hàng ghế thính giả. Một câu hỏi của thính giả gửi lên được người điều phối đọc cho các diễn giả biết: "Các nhà hoạch định chính sách đã làm tan nát trái tim của các gia đình Mỹ".
Liên hệ cuộc chiến tranh Việt Nam với cuộc chiến tranh Iraq hiện nay, cựu Tổng thống Jimmy Carter nói trong một cuộn băng video ghi sẵn: "Tôi nghĩ Việt Nam gửi ra một dấu hiệu bảo ta phải thận trọng, rằng chúng ta phải thận trọng hơn khi phiêu lưu chính trị. Những bài học rút ra, tôi nghĩ, đã bị lãng quên hoặc bỏ qua trong cuộc chiến tranh Iraq".
Nêu lên một vài nét chấm phá về cuộc hội thảo tại Thư viện Kennedy như trên, chúng ta không coi đó là những ý kiến tiêu biểu nhất. Dẫu sao, qua các ý kiến phát biểu, ta vẫn có thể thấy được một số đánh giá của người Mỹ về cuộc chiến tranh của họ ở Việt Nam sau hơn 30 năm chiến tranh kết thúc. Ðương nhiên, những sự đánh giá đó, dù thừa nhận hay không thừa nhận thất bại, cũng đều không thay đổi được sự thật lịch sử của cuộc chiến tranh. Rằng đó là một cuộc chiến tranh do Mỹ gây ra trên một đất nước xa nước Mỹ hàng vạn dặm, không hề động chạm đến một sợi lông chân của nền an ninh nước Mỹ, một cuộc chiến tranh mà mục đích duy nhất là áp đặt chế độ thống trị thực dân kiểu mới, dưới chiêu bài nền dân chủ. Rằng đó là một cuộc chiến tranh xâm lược mà nước Mỹ đã phải động viên gần như toàn bộ sức mạnh của hải, lục, không quân của họ cùng với những vũ khí hiện đại nhất, trừ vũ khí nguyên tử, tạo nên một bộ máy chiến tranh khổng lồ mà số quân Mỹ có mặt ở Việt Nam lúc cao nhất là hơn nửa triệu người. Rằng trong cuộc chiến tranh đó, Mỹ đã đổ ra mấy trăm tỷ USD, dẫn đến sự kiệt quệ về kinh tế và sự phá sản của cái gọi là "xã hội vĩ đại" của Tổng thống Johnson, đồng thời chuốc lấy cái chết cho gần 6 vạn lính Mỹ và mấy chục vạn bị thương. Mỹ còn gây ra những tội ác tày trời ở Việt Nam, tàn phá phố phường và làng mạc, giết hại hàng triệu người Việt Nam bằng vũ khí thông thường và cả vũ khí hủy diệt như vũ khí hóa học và chất độc da cam. Rằng rốt cuộc Mỹ đã buộc phải ký Hiệp định Paris về Việt Nam, cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, rút toàn bộ quân đội và vũ khí ra khỏi miền nam Việt Nam.
Nhân dân ta từng chứng kiến lễ cuốn cờ của quân đội Mỹ ngày 29-3-1973 và sau đó hai năm, chứng kiến sự sụp đổ của chế độ Sài Gòn trước cuộc tổng tiến công và nổi dậy như vũ bão với năm quân đoàn cùng xốc tới trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Nhân kỷ niệm 30 năm ngày 30-4-1975, tờ Independent (Anh) ra số ngày 5-3-2005 đăng bài viết của nhà báo John Pilger, một trong số những phóng viên nước ngoài có mặt tại Sài Gòn vào thời điểm cuối tháng 4-1975, tái hiện cuộc tháo chạy cuối cùng của người Mỹ. Bài báo bắt đầu bằng việc chặt cây me đại thụ trong vườn nhà Sứ quán Mỹ. Cây me đã được trồng gần 100 năm và đại sứ Mỹ Graham Martin từng nói với các nhân viên rằng cây me gục xuống cũng đồng nghĩa với niềm kiêu hãnh của nước Mỹ sụp đổ. Thế mà sáng ngày 29-4, bất chấp ý kiến của đại sứ, viên sĩ quan cầm đầu CIA đã cho người vác rìu và cưa điện đến chặt hạ. Lý do là để bảo đảm cho sân bay trực thăng trên nóc sứ quán Mỹ tiếp nhận được loại máy bay trực thăng cỡ lớn dùng vào việc di tản. Giữa lúc cây me đổ sập và ông Martin bàng hoàng thì Kissinger gọi điện thoại thông báo ý kiến Tổng thống Ford rằng, đại sứ phải ra quyết định di tản. Sáng 30-4, lúc 2 giờ 30 phút, một lần nữa, Kissinger hạ lệnh cho Martin phải kết thúc kế hoạch di tản trước 3 giờ 45 phút. Và nửa tiếng sau, vị đại sứ Mỹ đã xách cặp da và một túi xách tài liệu lặng lẽ lên máy bay, vứt bỏ mọi thứ lại.
Phóng sự viết: Ba giờ sau, khi mặt trời ló rạng, những chiếc xe tăng cắm cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền nam tiến vào trung tâm thành phố. Các binh sĩ trên xe tăng không bắn một phát súng nào. Một người nhảy xuống, trải bản đồ trên xe tăng và hỏi những người gần đó: "Hãy chỉ cho chúng tôi đường đến Dinh Tổng thống. Chúng tôi không biết Sài Gòn". Các xe tăng qua quảng trường Lam Sơn, dọc theo đại lộ Tự Do, qua nhà thờ Ðức Bà và qua những cánh cổng lộng lẫy của Dinh Tổng thống - nơi Minh lớn (Dương Văn Minh) cùng nội các đang chờ để đầu hàng. Ngoài phố, binh lính Việt Nam cộng hòa vứt bỏ quân phục. Họ đã hòa vào đám đông. Không có "tắm máu". Kẻ xâm lược bị đẩy lùi. Việt Nam lại là một đất nước thống nhất. Cuộc chiến kéo dài nhất thế kỷ 20 đã kết thúc.
Thế đấy, thắng lợi của ta và thất bại của địch !
Không phải ngẫu nhiên mà từ thất bại của cuộc chiến tranh ở Việt Nam, người ta đã cố rút ra những bài học. Ðối với đông đảo nhân dân Mỹ, đó là đừng bao giờ để xảy ra cho nước Mỹ bất cứ cuộc chiến tranh nào như kiểu chiến tranh Việt Nam. Ðối với giới chính trị thức thời, đó là nên tìm cách khép lại quá khứ, tạo dựng nên mối quan hệ mới với Việt Nam.
Hai mươi năm sau, năm 1995, hai nước đã thiết lập quan hệ ngoại giao bình thường. Tháng 7-2000, Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ được ký kết. Cuối năm 2000, Tổng thống Mỹ Bill Clinton thăm chính thức Việt Nam. Tháng 6-2005, Thủ tướng Phan Văn Khải thăm chính thức Mỹ. Và năm nay, giữa lúc kỷ niệm lần thứ 31 ngày 30-4-1975 đến gần thì hai bên Việt - Mỹ xúc tiến những cuộc đàm phán cuối cùng về việc Việt Nam gia nhập WTO.
Dẫu sao, cho đến nay, từ phía Mỹ, những lực cản trong quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ vẫn còn không ít. Những thủ đoạn chống phá vẫn còn tiếp tục, nhất là trong các vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền. Ai cũng nhân danh lợi ích của nước Mỹ. Song lợi ích của nước Mỹ là gì nếu không phải là sớm gạt bỏ những trở ngại đó để có quan hệ tốt với một quốc gia mà họ đã từng mắc nhiều món nợ?